Theo số liệu thống kê của Hải quan, 9 tháng đầu năm nay, giá trị XK các mặt hàng cá ngừ mã HS03 (có giá cao hơn nhiều so với cá ngừ hộp mã HS16) chỉ đạt hơn 229,991 triệu USD, giảm 19,14% so với 284,445 triệu USD cùng kỳ năm ngoái. XK cá ngừ tươi/sống/đông lạnh/khô và thăn cá ngừ giảm lần lượt là 27,67% và 11,39%. So với tháng trước, XK hai mặt hàng này trong tháng 9 giảm sâu hơn.
Trong khi đó, sản phẩm cá ngừ chế biến lại đang tăng trưởng so với cùng kỳ. Trong đó, giá trị XK cá ngừ đóng hộp thuộc mã HS16 tăng hơn 11% và cá ngừ chế biến khác cũng thuộc mã HS16 tăng hơn 90%.
Bên cạnh đó, sau khi tăng khả quan vào những tháng đầu năm, sản lượng khai thác cá ngừ của Việt Nam những tháng gần đây giảm, khiến nguồn nguyên liệu 9 tháng đầu năm tại các tỉnh đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, việc đẩy mạnh XK là hết sức khó khăn.
Nguyên nhân là do chi phí nhiên liệu, giá vật tư lương thực, thực phẩm, nước đá và ngư cụ, nhân công tăng từ 10 – 15%. Trong khi giá cá ngừ sau khai thác lại rất bấp bênh.
Có rất nhiều ý kiến cho rằng từ khi xuất hiện hình thức khai thác cá ngừ mới là câu đèn sản lượng đánh bắt cá ngừ của Việt Nam tăng mạnh, nhưng chất lượng cá ngừ sau thu hoạch lại giảm. Cá ngừ không đủ phẩm cấp để XK dưới dạng các sản phẩm có giá trị cao như tươi/sống/đông lạnh, mà chỉ xuất được một số dưới dang thăn cá ngừ nguyên liệu dành cho sản xuất cá ngừ đóng hộp và cá ngừ chế biến. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho tổng giá trị XK cá ngừ của Việt Nam 9 tháng đầu năm sụt giảm so với cùng kỳ.
Theo các chuyên gia Nhật Bản (nước đứng đầu thế giới về tiêu thụ mặt hàng cá ngừ tươi và đông lạnh) chất lượng cá ngừ đại dương phụ thuộc vào cách sơ chế và bảo quản sau đánh bắt. Hiện tại đây chính là điểm yếu của ngành cá ngừ Việt Nam. Nếu như làm tốt, thì tổng sản lượng đánh bắt cá ngừ của 3 tỉnh trọng điểm của Việt Nam là Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa cũng không đủ tiêu thụ tại thị trường Nhật. Và cũng đã có rất nhiều đề án của các cơ quan nhà nước nghiên cứu về vấn đề này, nhưng tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có kết quả chính thức. Như vậy, nếu giải quyết được các vấn đề này thì khả năng tăng cường XK của chúng ta sang Nhật rất cao. XK cá ngừ sang Nhật Bản năm nay sụt giảm rõ rệt và giảm sâu: 9 tháng đầu năm giảm gần 20%, riêng tháng 9 giảm 24%. Năm nay Nhật Bản thắt chặt kiểm tra ATVSTP với thủy sản NK nên XK cá ngừ Việt Nam cũng bị ảnh hưởng.
Vấn đề nâng cao chất lượng cá ngừ sau thu hoạch đã được đề cập nhiều lần và điều quan trọng là phải sớm có giải pháp hữu hiệu và đưa vào thực hiện. Ngành cá ngừ cũng cần phải có một quy hoạch tổng thể khi các yêu cầu của thị trường liên quan đến khai thác bền vững ngày càng khắt khe.
Ngoài ra, khả năng cạnh tranh các sản phẩm cá ngừ của Việt Nam trên thị trường thế giới cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến XK cá ngừ của Việt Nam. Vị trí địa lý, ưu đãi thuế quan, thủ tục nhập khẩu phức tạp đang là những trở ngại khiến các sản phẩm cá ngừ của Việt Nam khó có thể cạnh tranh được với các sản phẩm của các nước đối thủ trên thị trường thế giới.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh các nước đối thủ như Ecuador, Philippines và Thái Lan đang tích cực có những động thái thỏa thuận với các nước EU, Mỹ để được ưu đãi về mặt thuế quan đối với các mặt hàng cá ngừ thì Việt Nam cũng nên quan tâm và tận dụng cơ hội ưu đãi thuế quan để giữ vị thế cạnh tranh với các nước đối thủ.