Ứng dụng chế phẩm sinh học (Probiotics) trong ương tôm sú (Penaeus monodon) từ giai đoạn ấu trùng đến PL10
Lê Hoàng Minh
Thí nghiệm 1: được tiến hành nhằm xác định liều lượng tốt nhất của chế phẩm sinh học lên sự sinh trưởng, tỷ lệ sống và chất lượng Postlarvae. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức: NT1 không sử dụng chế phẩm sinh học, NT2 xử dụng 5g/m3, NT3 sử dụng 10g/m3, NT4 sử dụng 15g/m3. Kết quả cho thấy liều lượng 5g/m3 của NT2 cho tỷ lệ sống 51,85±2,49% khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với NT1 (26,12±4,80%), NT3 (37,35±8,99%) và NT4 (32,93±6,31). Chiều dài giai đoạn PL12 ở NT1 (11,57±0,38 mm) thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với NT2 (12,03±0,31mm) và NT3 (11,83±0,85mm) nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với NT4 (11,57±0,38mm) chất lượng PL 12 của các nghiệm thức đều có chất lượng tốt NT1 86 điểm, NT2 98 điểm, NT3 97 điểm, NT4 97 điểm (theo công thức của Watchana Sunthom (1996)).
Thí nghiệm 2: được tiến hành nhằm Xác định thời gian bổ sung chế phẩm sinh học lên tỷ lệ sống tăng trưởng của ấu trùng từ liều lượng tốt nhất (5g/m3) của thí nghiệm 1. Thí nghiệm cũng gồm 4 nghiệm thức: NT1 được bổ sung chế phẩm sinh học với chu kì 1 ngày/lần, NT2 bổ sung 3 ngày/lần, NT3 bổ sung 5 ngày/lần và NT4 bổ sung 7 ngày/lần. Kết quả thí nghiệm cho thấy với chu kỳ bổ sung chế phẩm sinh học 1 ngay/lần ở NT1 cho tỷ lệ sống ở PL2 sống cao nhất (65,55±8,40%) khác biệt có ý nghĩa thống kê NT2 (49,54±4,22%), NT3 (47,06±4,47%) và NT4 (41,56±7,73%). Ở PL12 thì chiều dài của NT1 (12,40±0,36mm) cao nhất cũng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với NT2 (12,23±0,42mm), NT3 (12,23±0,42mm) và NT4 (11,50±0,53mm). Postlarvae 12 của các nghiệm thức đều có chất lượng tốt NT1 98 điểm, NT2 97 điểm, NT3 97 điểm, NT4 96 điểm (theo công thức của Watchana Sunthom (1996)).
"Tài liệu điện tử trên trang tepbac được chia sẻ để sử dụng cho mục đích học tập và nghiên cứu cá nhân. Nghiêm cấm mọi hình thức sao chép, in ấn phục vụ các mục đích khác nếu không được sự chấp nhận của tác giả và nhà xuất bản."