Sản lượng nhựa toàn cầu tăng từ 0,5 lên 322 triệu tấn sau 55 năm. Đặc biệt hiện nay nhựa ở dạng nano (có kích thước <1 μm) (nano plastic) đã được nhấn mạnh là có hại, trong nhiều nghiên cứu cho thấy sự phân mảnh của microplastic thành nano plastic trong môi trường.
Các nghiên cứu trước đây đã cho biết rằng những hạt nhựa gây ra tác hại và rủi ro tiềm ẩn đối với các sinh vật biển và hệ sinh thái. Các nhà khoa học đã nghiên cứu tác động của vi nhựa hoặc nhựa nano trên các sinh vật biển khác nhau bằng cách sử dụng phân tích mô học và một số chỉ số, bao gồm cả tỷ lệ tử vong, khả năng sống của tế bào, hoạt động ăn, sinh sản và tỷ lệ tiêu thụ oxy.
Phần lớn chỉ đánh giá sự tác động trực tiếp của vi nhựa đến sức khỏe động vật thủy sản, nhưng các loài này có thể bị ảnh hưởng gián tiếp từ chuỗi thức ăn của chúng.
Tác hại và rủi ro tiềm ẩn đối với các sinh vật biển và hệ sinh thái của vi nhựa hoặc nhựa nano. Ảnh: Pinterest
Trong một đánh giá về sự phơi nhiễm của tôm thẻ chân trắng với nhựa có kích thước nano (polystyrene) thông qua chuỗi thức ăn là vẹm (Mytilus edulis). Cụ thể, vẹm sẽ được cho tiếp xúc với nhựa ở dạng nano thông qua hình thức ăn lọc sau đó những con vẹm này được dùng làm thức ăn cho tôm thẻ chân trắng sau đó sẽ đánh giá tác động của ô nhiễm nhựa đối với các đặc điểm vật lý, sinh hóa và dinh dưỡng của tôm sau 21 ngày.
Dung dịch polystyrene (nPs) có kích thước nano có màu xanh, kích thước đường kính trung bình của mỗi nPS là 44 nm. Các tính chất vật lý của các hạt nPS trong nước cất và nước biển nhân tạo được phân tích bằng cách sử dụng tán xạ ánh sáng động (DLS) và kính hiển vi điện tử (SEM).
Quá trình chuyển các hạt nhựa nano từ vẹm (con mồi) sang tôm (động vật ăn thịt)
Vẹm được nuôi trong môi trường nước biển có chứa nPS với nồng độ 50 μg/mL trong 1 giờ sau đó xác định các điều kiện thích hợp để phát hiện nPS trong cơ thể của vẹm. Theo kết quả phân tích DLS và SEM, nPS liên kết với các hạt muối trong nước biển nhân tạo nên có tăng kích thước của chúng khoảng 1,4 μm.
Vem sau khi tiếp xúc với nPS thì được loại bỏ vỏ của chúng trước khi cung cấp chúng làm thức ăn cho tôm thẻ chân trắng. Việc quan sát vẹm dưới kính hiển vi quang học cho thấy rằng các hạt nPS được hấp phụ hoặc gắn vào bề mặt của các cơ quan của vẹm (đặc biệt là bề mặt mang) và chân, do đó được truyền sang tôm thẻ chân trắng thông qua việc ăn các bộ phận này.
Qua quan sát không thấy vẹm chết do tiếp xúc với nPS. Nhưng khi nPS được chuyển sang tôm thì quan sát thấy các hạt hình cầu gắn vào các mô ruột.
Những hạt nhựa nano này có thể được chuyển từ hải sản sang người thông qua ăn uống. Ảnh: bạt Hpde
Khi đánh giá những thay đổi trong một số chỉ số sinh hóa và dinh dưỡng quan trọng, bao gồm cả những thay đổi trong hệ vi sinh vật đường ruột và hàm lượng axit amin và axit béo của tôm, thì kết quả cho thấy có những thay đổi tiêu cực đối với tôm thẻ chân trắng.
Cụ thể là các thông số về hệ vi sinh đường ruột và hoạt động của glutathione S-transferase và hoạt tính superoxide dismutase đã thay đổi ở tôm thẻ chân trắng khi tiếp xúc với nhựa kích thước nano. Hay thành phần và hàm lượng của một số axit amin thiết yếu và axit béo cũng giảm.
Mặc dù không tiến hành đánh giá định tính về việc chuyển các hạt nhựa nano từ vẹm (con mồi) sang tôm (động vật ăn thịt), nhưng quan sát thấy sự hấp phụ của các hạt này trên vẹm và quan sát thấy những thay đổi sinh hóa và dinh dưỡng đáng kể trên tôm, bắt nguồn từ việc nuốt phải nhựa nano. Do đó, những hạt nhựa nano này có thể được chuyển từ hải sản sang người thông qua ăn uống.
Như vậy phát hiện này cho thấy rằng ô nhiễm nhựa có thể ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thực phẩm biển trong chuỗi thức ăn, do đó sẽ gián tiếp gây ra những tác động tiềm ẩn đến sức khỏe cho con người người tiêu dùng cũng như vật nuôi.