Theo Cục Quản lý Đại dương và Khí quyển Quốc gia (NOAA), hơn 90% tôm, cá hồi, cá rô phi và các loại hải sản khác tiêu thụ ở Mỹ được nhập khẩu. Kết quả là, sự thiếu hụt hải sản của Mỹ tăng lên hơn 11 tỷ đô la mỗi năm.
Nước Mỹ có thể không thích nuôi trồng thủy sản dọc theo bờ biển bởi những tác động môi trường. NOAA và một số tổ chức thương mại thủy sản cho rằng nuôi trồng thủy sản ngày càng trở nên an toàn hơn, và có thể là cách phục hồi môi trường sống, phát triển kinh tế bền vững và đánh bắt hải sản phát triển hơn.
Phần lớn các dự án nuôi trồng thủy sản ở Mỹ chủ yếu là các dự án nhuyễn thể và rong biển ở những vùng biển như New England và Long Island. Và cho đến nay, không có hoạt động nuôi cá thương mại ở bất kỳ vùng biển liên bang nào.
Những con số này đã dẫn NOAA phê duyệt nuôi trồng thuỷ sản lần đầu tiên trong các vùng biển do Liên bang quản lý ở Vịnh Mexico năm ngoái. Tuy nhiên những tổ chức môi trường lại cho rằng nó không thực tế và gây ra một cuộc tranh cãi.
NOAA lại cho rằng thay vì nhập khẩu cá từ nước ngoài thì việc mở rộng nuôi cá ở Hoa Kỳ - nơi các quy định nghiêm ngặt hơn nhiều so với các nhà lãnh đạo nuôi trồng thuỷ sản toàn cầu như Indonesia, Việt Nam và Philippines.
NOAA vẫn đang theo đuổi các nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản ở Mỹ. Cơ quan này tập trung vào việc nuôi thương phẩm của một số loài cá, kể cả cá sablefish, còn được gọi là cá tuyết đen hoặc cá da trơn. Loại cá này được các đầu bếp khao khát bởi tính linh hoạt và kết cấu, nhưng trữ lượng của nó đã giảm nhanh chóng trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, nuôi trồng thuỷ sản ở Mỹ vẫn còn một con đường dài để chấp nhận. Và tương lai của nó không được hỗ trợ bởi chính quyền tổng thống hiện tại. Nếu tổng thống thành công trong việc cắt giảm ngân sách của NOAA, ông cũng sẽ làm tổn thương cả ngư dân địa phương và các doanh nhân trong khi cho phép nhiều loài cá từ nguồn đáng ngờ được nhập khẩu vào Mỹ.