Koi sleepy disease

Bệnh ngủ trên cá Koi

Bệnh cá Koi ngủ (Koi sleepy disease - KSD) là một căn bệnh có tác hại nghiêm trọng trong hoạt động nuôi cá chép cảnh trên toàn cầu. Căn bệnh này thường xuất hiện dưới dạng đa yếu tố với một số loài ký sinh trùng và vi khuẩn hiện diện trên mang, da hoặc trong cơ quan nội tạng của cá. 

Nguyên nhân

Tìm nguyên nhân mới gây ra sự tổn hại trên mang cá

Trong trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã phân tích và trình bày các kết quả ban đầu về sự tương tác giửa vi khuẩn Flavobacteria và virus CEV trong quá trình hình thành và phát triển của bệnh ngủ ở cá Koi (KSD); từ dấu hiệu lâm sàng ở cá chép bị bệnh mang mầm. 

Các nhà khoa học đã kiểm tra các mẫu thực địa được lựa chọn từ Đức và Hungary và xác nhận sự hiện diện của virus HIVV và cả sự nhiễm trùng của cá với vi khuẩn Flavobacteria trong các tập hợp mẫu. Đây là loại vi khuẩn dạng sợi (Myxobacterial) ngoại ký sinh, gây tổn thương chủ yếu trên da và mang. Chúng thuộc nhóm vi khuẩn Gram âm, hình que, dài và mảnh, kích thước khoảng 0,5-1.0x 4-10µm, hoạt động rất mạnh, di động trượt. 

Gây nhiễm thực nghiệm và phân lập định danh

Trong một số thí nghiệm gây nhiễm khuẩn, nhóm nghiên cứu phát hiện có sự chuyển tiếp và tác động tương trợ của cả hai bệnh là HIVV và vi khuẩn Flavobacteria. 

Hơn nữa, các nhà khoa học cũng đã phân tích loài Flavobacterium nào có thể được phân lập từ cá bị ảnh hưởng của cá Koi ngủ (KSD) và kết luận rằng loài Flavobacterium branchiophilum là một mầm bệnh chính xác gây ra tình trạnh nhiễm bệnh thứ cấp sau khi CEV xâm nhập và gây hại. 

 

Cây phát sinh loài F. branchiophilum

Thí nghiệm điều trị kháng sinh cho thấy CEV chính là tác nhân gây bệnh chính gây ra sự tổm hại đến mang cá chép và tạo điều kiện để các tác nhân gây bệnh khác xâm nhập, bao gồm F. branchiophilum, từ đó thiết lập trạng thái bội nhiễm (nhiễm nhiều tác nhân gây bệnh cùng một lúc). 

Mặc dù trên thực tế loài vi khuẩn Flavobacterium branchiophilum được cho là không đáng ngại trong quá trình phát triển của bệnh ngủ trên cá (KSD), tuy nhiên nghiên cứu này đã chứng minh chúng có thể góp phần vào những thay đổi bệnh lý trong các đợt bùng phát bệnh và gây nên tình trạng kháng thuốc. 

Triệu chứng

Dấu hiệu bệnh ngoài của bệnh có thể thấy mang có vết chấm lốm đốm màu đỏ và màu trắng (hình 15, 16) (giống như bệnh vi khuẩn dạng sợi), mang chảy máu, mắt trũng, da có đám bạc màu hoặc phồng rộp. Lấy nhớt mang kiểm tra dưới kính hiển vi thường gặp số lượng lớn vi khuẩn và KST khác nhau (Hedrick et al., 2000; OATA, 2001; Goodwin, 2003).

Dấu hiệu bên trong của bệnh không có gì đặc biệt, nhưng chúng có thể là các cơ quan bắm chặt vào xoang cơ thể và xuất hiện các chấm lốm đốm (Hedrick et al., 2000; Goodwin, 2003).

Tỷ lệ chết rất cao xảy ra rất nhanh trong quần đàn nhiễm bệnh, cá chết bắt đầu trong vòng 24-48 giờ sau khi xuất hiện dấu hiệu bệnh. Thí nghiệm nhiễm bệnh bằng virus ở nhiệt độ 22oC, 82% cá chết trong vòng 15 ngày (Ronen et al., 2003). 

 

Cá chép bị bệnh CEV thường thấy mang có vết chấm lốm đốm màu đỏ và màu trắng. Những vết chấm này xuất như dạng bệnh vi khuẩn hình sợi trên mang cá.

Phân bố


Phòng trị

Khuyến cáo một số biện pháp phòng trị bệnh do Flavobacterium 

- Quản lý tốt chất lượng nước.

- Mật độ ương nuôi vừa phải.

- Vận chuyển và chặt lòng tránh sốc và xay xát. 

- Ngăn ngừa ký sinh trùng trên cá. 

Tài liệu tham khảo

https://onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1111/jfd.12872 

bởi TRỊ THỦY