Bệnh đốm trắng đường ruột (tụ huyết trùng) trên cá bớp

Photobacterium damselae in cobia

Cá bớp là đối tượng nuôi quan trọng và đem lại nguồn lợi lớn đối với nhiều hộ nuôi ở các tỉnh ven biển miền trung và tây nam bộ. Ngày nay, nghề nuôi cá bớp đang phải đối mặt với nhiều thách thức nhất là các nguy cơ về mầm bệnh, dễ dàng gây chết cá và thiệt hại cho người nuôi. Bệnh đốm trắng đường ruột do vi khuẩn Photobacterium damselae gây ra trên cá bớp cũng là một trong những bệnh nguy hiểm hàng đầu phải quan tâm.

P. damselae được mô tả là tác nhân gây bệnh trên rất nhiều đối tượng thuộc cá biển nuôi lồng tại nhiều quốc gia trên thế giới, các loài cá có tầm quan trọng về kinh tế trong nuôi trồng thủy sản như cá mú, cá bớp, cá tráp, cá vược… đã chịu rất nhiều thiệt hại do chúng gây ra ( Agarinos và cs, 1997), và đây được coi là tác nhân gây bệnh mới nổi trong nuôi trồng thủy sản biển (Labella và cs, 2011). 

Nguyên nhân

Tác nhân gây bệnh được xác định chủ yếu là do vi khuẩn Photobacterium damselae, nhiều công trình nghiên cứu trước đây đều chỉ ra rằng loài Photobacterium damselae là một vi khuẩn có khả năng gây chết cho cá bớp rất cao. Tuỳ vào nguồn phân lập và độ tuổi cũng như kích cỡ của cá, có thể dẫn đến sự khác biệt về độc lực của vi khuẩn phân lập được.

Bệnh trên cá bớp, bệnh cá, bệnh cá bớp, cá bớp, nuôi cá bớp

Hình 1: Hình thái của vi khuẩn Photobacterium damselae quan sát dưới kính hiển vi

(Nguồn: Trương Thu Hương, 2015)

P. damselae là trực khuẩn, bắt  màu hồng Gram âm, màu sẫm ở 2 đầu, ở phần thân nhạt màu hơn. Khuẩn lạc phát triển trên môi trường Tryptic soya agar (TSA)  có dạng tròn, viền trơn bóng, lồi, khoảng 1-2mm, màu trắng đục hoặc hơi hồng.


Triệu chứng

Bệnh phát hiện đầu tiên tại Đài Loan vào tháng 7 năm 2000, với các dấu hiệu lâm sàng giống như các bệnh khác của cá bớp, bao gồm: cá biếng ăn, chậm lớn, lở loét trên da.

Đồng thời, những biểu hiện đặc trưng khác trong nội tạng cũng được biểu hiện rõ khi giải phẫu cá, như: xuất hiện các nốt trắng trên gan, thận, tỳ tạng với kích thước từ  0,5 đến 2 mm, hoại tử trong nội tạng, hoại tử tập trung ở lách và thận, gây nhiễm trùng và hoại tử rộng rãi, gây chết rải rác trên cá. 

Không những thế, vi khuẩn gây bệnh đốm trắng trên nội tạng cá bớp còn có thể gây bệnh trên người như nhiễm trùng dẫn đến hoại tử và có thể tử vong.  Do vậy người nuôi cần hết sức cẩn thận tránh để vết thương hở tiếp xúc với cá bệnh, dụng cụ giải phẫu, môi trường nước nhiễm bệnh, dụng cụ vệ sinh khu vực bệnh, ...

 Bệnh trên cá bớp, bệnh cá, bệnh cá bớp, cá bớp, nuôi cá bớp

Hình 2: Biểu hiện bệnh đốm trắng nội tạng trên cá bớp ở gan (a) và thận (b)

(Nguồn: Moraes và cộng sự, 2009)

Phân bố

Bệnh này thường gặp ở cá giống khi nhiệt độ nước giảm (Liu và cộng sự, 2003). Cá bệnh có thể chết sau 5 - 10 ngày với tỷ lệ chết rất cao từ 80 - 100%, và đã gây thiệt hại về kinh tế cho nhiều hộ nuôi ở các nước như: Nhật, Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhỹ Kỳ.

Ở Việt Nam, bệnh phân bố ở hầu hết các vùng nuôi trên cả nước. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Thị Hoà, bệnh đốm trắng nội tạng xuất hiện trên cá bớp kích cỡ 0,5 - 1 kg/con được nuôi lồng tại Khánh Hoà. Bệnh xuất hiện vào mùa mưa, mùa có nhiệt độ thấp trong năm.

Phòng trị

Cách ly cá bệnh, người nuôi có thể tăng cường sức đề kháng cho cá bằng cách bổ sung thêm Vitamin C vào thức ăn. Các loại kháng sinh sử dụng cho ăn bao gồm Doxycycline và Rifamycin tỷ lệ 1:1, liều lượng sử dụng là 25- 30mg/kg cá/ngày. Cho cá ăn liên tục trong 7 ngày.

Tắm cá bằng formalin, triplan. Các loại kháng sinh sử dụng bao gồm Rifamycin, Doxyciline, Oxytetraciline.

+ Nồng độ Formalin là 150- 200 ml cho 01m3 nước biển.

Thông tin thêm với người nuôi là P. damselae phân lập ở một số trang trại nuôi trồng thủy sản ở Ý cho thấy:  các chủng P. damselae phân lập có khả năng kháng với một số loại kháng  sinh bao gồm: Ampicillin, Carbenicillin, Kanamycin, Cefalothin; trong khi đó lại mẩn cảm  với các loại kháng sinh gồm: Chloramphenicol, Nitrofurantoin và Tobramycin.

Người nuôi cần lưu ý là các biện pháp trên chỉ phần nào làm giảm nguy cơ diễn biến của bệnh và tăng sức đề kháng cho cá, hầu như chưa có một loại thuốc hoặc phương pháp điều trị cụ thể nào được công bố.

Phòng bệnh

Việc phòng bệnh phải được đặt lên hàng đầu trong nghề nuôi thủy sản nói chung và nghề nuôi cá bớp nói riêng. Công việc này phải tiến hành ngay từ đầu để giảm bớt rủi ro trong quá trình nuôi. Cần làm tốt những việc sau:

- Giữ cho môi trường nước sạch sẽ, lồng lưới thông thoáng.

- Sử dụng cá tạp tươi, thức ăn hỗn hợp có chất lượng tốt.

- Định kỳ 2 tháng tắm cho cá một lần bằng dung dịch thuốc tím (KMNO4) nồng độ 5 ppm trong thời gian 15 – 20 phút.

- Khi phát hiện cá bệnh, cần nuôi cách ly, xác định rõ bệnh và có biện pháp chữa trị phù hợp. Nếu cá chết phải vớt lên và xử lý tiệt trùng, không vứt ra vùng nuôi nhằm tránh lây lan bệnh.

Tài liệu tham khảo

https://xemtailieu.com/tai-lieu/xac-dinh-tac-nhan-vi-khuan-gay-benh-dom-trang-noi-tang-o-ca-bop-rachycentron-canadum-nuoi-tai-khanh-hoa-1584739.html

http://www.quangngai.gov.vn/vi/sonn/pages/qnp-kythuatnuoicaboptrong-qnpnd-1212-qnpnc-28-qnpsite-1.html

bởi Mạnh Kha