Ngành nuôi các loài cua này đã được thực hiện trong nhiều thập kỷ ở nhiều nước châu Á (Kathirvel et al., 2004), chủ yếu phụ thuộc vào việc vỗ béo cua mềm hoặc cua nước. Đây là hình thức đơn giản nhất của thực tiễn nuôi trồng thủy sản, nơi mà những con vật bị giam giữ trong một khoảng thời gian ngắn để tăng cường các thuộc tính có thể bán được. Hình thức hình thức nuôi này bây giờ tạo cơ sở cho một ngành công nghiệp thủy sản nhỏ nhưng sôi động ở các nước Đông Nam Á. Ở Ấn Độ, nuôi cua biển đang trở thành động lực thúc đẩy sự đa dạng hóa nuôi trồng thủy sản ven biển (Kathirvel, 1993, Marichamy, 1996, Marichamy và Rajapackiam, 2001; Patterson và Samuel, 2005; Sakthivel and Francis, 2006).
Các loài cua, điều quan trọng là phải xem xét tác động của bệnh như là động lực gây chết đối với chúng trong điều kiện được chăm sóc và hoang dã để đảm bảo sự bền vững lâu dài của nguồn tài nguyên này. Vì vậy, sự hiểu biết tốt hơn về mầm bệnh của cua bùn là rất quan trọng. Trong bối cảnh này, việc tổng hợp hiện nay là một cái nhìn tổng thể về các bệnh tiềm ẩn xảy ra ở cua bùn Scylla spp. Đặc biệt là các lại mầm bệnh virus gây tỷ lệ tử vong rất cao, thiệt hại lớn và rất khó điều trị.
Biết bốn loại virut, như virus WSSV, virus hoại tử cơ, reovirus và baculovirus đã được báo cáo ở cua Scylla spp. Hầu hết các bệnh do nhiễm virus ở cua bùn đều liên quan đến WSSV từ tự nhiên và cua bùn bị nhiễm thực nghiệm (Otta và cộng sự, 1999, Rajendran và cộng sự, 1999, He et al, 2003, Sahul Hameed và cộng sự, 2003). Một nghiên cứu ở Thái Lan cho thấy rằng cua nuôi (S. serrata) và các loài cua hoang dã khác (ví dụ: Uca vocans, Sesarma mederi) có thể bị nhiễm virut hội chứng Taura (TSV) thực nghiệm bằng cách tiêm và bằng cách cho ăn tôm nhiễm bệnh do TSV , và các nhiễm trùng kết quả có thể tồn tại đến 50 ngày và có thể hoạt động như những cá thể mang TSV và có thể gây nguy cơ tiềm ẩn đối với tôm nuôi (Kiatpathomchai và cộng sự, 2008). Tuy nhiên, các trường hợp nhiễm bệnh tự nhiên ở các loài cua hoang dã vẫn chưa được báo cáo. Nhiễm trùng thực nghiệm của các virus tôm khác như virus đầu vàng (YHV) ở các loài cua khác nhau bao gồm cả cua bùn cho thấy không có khả năng phát tán rộng (Longyant và cộng sự, 2006).
+ Virus gây hội chứng đốm trắng (WSSV)
Các bùn là loài mang mầm bệnh và các gen của WSSV trong các cơ sở nuôi tôm (Lo và cộng sự, 1996) mà không hề có dấu hiệu nào cho biết cua bệnh. Nhiễm WSSV tự nhiên đã được tìm thấy ở những con bùn bị đánh bắt tự nhiên và nuôi ở các giai đoạn khác nhau ở nhiều nước thuộc vùng Asiatic
WSSV đã được phát hiện ở 60% ấu trùng đáy của cua bùn, S. serrata cả trong điều kiện tự nhiên và thí nghiệm (Chen và cộng sự, 2000). Tại Ấn Độ, tỷ lệ tự nhiên của WSSV ở cua khoảng 5,06%, trong ao nuôi khoảng 30% (Poornima và cộng sự, 2008).
Nhiễm WSSV có thể theo các con đường đường; Do sự truyền tải theo chiều dọc từ bố mẹ hoang dã hoặc thậm chí là sự truyền tải theo chiều ngang trong quá trình độc canh vì ao nuôi cá thường chứng kiến sự có mặt của cua hoang dã bị nhiễm WSSV. Các nghiên cứu thực hiện trong phòng thí nghiệm của chúng tôi cho thấy rằng cua bùn (S. tranquebarica) có thể bị nhiễm WSSV bằng cách tiêm, cho ăn hoặc chung sống bằng tôm nhiễm bệnh WSSV hoặc ngược lại.
Đối với người nuôi tôm, điều quan trọng là phải xác nhận liệu những con bùn có phải là vật chứa của WSSV có thể truyền virus sang tôm nuôi hay không khi nuôi tôm hoặc nuôi ghép cua đang được áp dụng rộng rãi ở nhiều vùng nuôi tôm.
a) Thể vùi WSSV trên mang cua. b) Mang cua bình thường
Thể vùi WSSV khi nhuộm H & E
Kết quả chẩn đoán WSSV trên cua bằng kỹ thuât PCR – 1000bp
+ Virus hoại tử cơ thịt
Song và cộng sự (2003) đã báo cáo một loại virus có đường kính 150 nm, trong bùn nuôi cấy gây ra một căn bệnh đặc trưng bởi hoại tử cơ ở Trung Quốc.
+ Reovirus
Gần đây, một virus reovirus được gọi là boran bovovirus (MCRV) từ cua bùn S. serrata có dấu hiệu "bệnh ngủ", tử vong cao và tổn thất kinh tế nặng ở miền nam Trung Quốc. Đây là tế virus không được bao phủ bởi cytoplasmic (đường kính 70 nm) gây nhiễm các tế bào mô liên kết của gan tụy, mang và ruột trong cua bùn. Nhiễm trùng thực nghiệm với tỷ lệ tử vong 80-100% đã được quan sát thấy qua các đợt nhiễm bệnh khác nhau (Weng et al., 2007). Một phương pháp phát hiện RT-PCR để chẩn đoán MCRV đã được phát triển và có thể được phát hiện trong tất cả các mô ở giai đoạn tiến triển của bệnh (Guo và cộng sự, 2008).
+ Baculovirus
Một số trường hợp nhiễm Baculovirus ở nội tạng trong mô gan tụy của những con bùn chưa trưởng thành (S. serrata) mà không có biểu hiện lâm sàng nhiều đã được ghi nhận từ vùng phía bắc của Úc (Anderson và Prior, 1992; Humphrey et. Al, 2009). Sự nhiễm bệnh được báo cáo là chịu nhiệt đối với tôm penaeid cho thấy rằng Baculovirus ở cua bùn không có khả năng gây bệnh cho các loài giáp xác khac. Việc nhiễm Baculovirus cua cua bùn chưa được ghi nhận từ Ấn Độ.
Biện pháp hạn chế bênh do virus trên cua
1. Trước khi thả nên sát trùng bằng dung dịch formaline 20 – 30 ppm hoặc sunphát đồng 2 – 4 ppm trong vòng 20 – 30 phút. Có thể dùng thuốc phun vào ao trong thời gian kể từ lúc bắt đầu thả nuôi, nồng độ thuốc thấp hơn 7 – 10 ppm so với nồng độ tắm cho cua.
2. Chỉ nên dùng với ao nhỏ, mật độ nuôi cao.
3. Để phòng các mầm bệnh trong thức ăn, nhất là thức ăn tươi sống, ta có thể khử trùng thức ăn trước khi cho cua ăn. Thức ăn rửa sạch ngâm trong thuốc tím nồng độ 5 – 10 ppm trong 20 – 30 phút. Rửa lại bằng nước sạch rồi cho cua ăn. Tốt nhất nên cho cua ăn thức ăn được nấu chín.