Đánh thức tiềm năng ngành rong biển

Khai thác, nuôi trồng rong biển ở Việt Nam được đánh giá là triển vọng; đồng thời có vai trò quan trọng trong bảo vệ, cải tạo môi trường nước ở các vùng nuôi thủy sản vốn đang bị ô nhiễm và thích ứng với biến đổi khí hậu. Song để ngành này xứng với lợi thế, rất cần phát triển công nghệ sản xuất giống; nhập giống mới để bổ sung cơ cấu giống nuôi…

Đánh thức tiềm năng ngành rong biển
Một số mô hình nuôi rong biển thí điểm cho hiệu quả cao. Nguồn: Internet

Lợi ích nhiều mặt

Ngành sản xuất rong biển trên thế giới đã phát triển rất mạnh trong thập niên vừa qua, đặc biệt ở khu vực châu Á (Trung Quốc, Indonesia, Philippines…) do nhu cầu tiêu thụ của rong và sản phẩm chế biến từ rong biển ngày càng gia tăng, giá trị thương mại rong biển trên thế giới năm 2015 ước 6,5 tỷ USD.

Việt Nam có lợi thế, tiềm năng lớn khi có hơn 800 loài rong biển gồm, rong đỏ, rong lục, rong nâu, rong lam với trữ lượng tự nhiên 80 - 100 tỷ tấn. Diện tích nuôi trồng rong biển ở Việt Nam hiện hơn 10.000 ha, sản lượng hơn 101.000 tấn rong tươi/năm. Rong biển được nuôi trồng tập trung ở các vùng ven biển, Bắc bộ gần 6.600 ha, Bắc Trung bộ hơn 2.000 ha, Nam Trung bộ 1.400 ha và ĐBSCL 100 ha. Riêng Khánh Hòa, hơn 300 ha; trong đó rong sụn chiếm đến 80%, tập trung tại các địa phương Cam Lâm, Cam Ranh và Vạn Ninh; 20% còn lại là rong nho thả nuôi tại các vùng Cam Lâm và Ninh Hòa…

Trong số hơn 800 loài rong biển thì vùng biển nước ta có 90 loài có giá trị kinh tế. Trong đó, hai nhóm loài rong biển có trữ lượng nguồn lợi tự nhiên lớn là rong mơ và rong câu. Khánh Hòa là một trong những địa phương tiên phong trong chế biến, xuất khẩu hoặc tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng từ rong biển. Bên cạnh đó, nhiều địa phương cũng đã xây dựng thành công mô hình nuôi các đối tượng thủy sản kết hợp rong biển như: Nuôi ốc hương kết hợp hải sâm, vẹm xanh và rong sụn tại vùng biển Khánh Hòa; Nuôi ốc hương, tu hài kết hợp rong câu ở vùng biển Phú Yên; Canh tác tôm sú và rong câu… Những mô hình này đã tạo ra nhiều loại sản phẩm, nguồn cung cấp đa dạng, đáp ứng nhu cầu của nhiều thị trường khác nhau, giảm rủi ro trong sản xuất và phân phối, sử dụng hiệu quả mặt nước.

Riêng đối với vùng ĐBSCL, khu vực bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn trong những năm qua. Các chuyên gia cho rằng, đã đến lúc cần phải nghiên cứu các loài thủy sản thích ứng với sự biến đổi này, đặc biệt là nghề nuôi trồng rong biển. Đây là hướng tiếp cận phù hợp với biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn ở vùng này, để giúp người dân ổn định sản xuất.

Cần xây dựng trung tâm giống

Dù có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nghề nuôi và chế biến rong biển như thị trường tiêu thụ rộng lớn, rong biển được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực, cho hiệu quả kinh tế cao... nhưng nghề này cũng đang đối mặt với nhiều thách thức. Đó là ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường, sản phẩm chưa đa dạng, sản xuất nhỏ lẻ và manh mún, chưa có công nghệ chế biến và quy hoạch cụ thể… Nhất là chưa có cơ sở lưu giữ, cung cấp giống và hướng dẫn kỹ thuật nhân giống, trồng rong cho người dân. Đa phần hiện người dân vẫn đang tự nhân giống bằng phương pháp thủ công từ nguồn tự nhiên nên không được nhiều và thường gặp những loại bệnh ở giai đoạn lưu giữ giống, do đó không mở rộng được diện tích.

Nhiều chuyên gia cho rằng, để phát triển ngành rong biển ở quy mô hàng hóa theo hướng hiện đại, cần phát triển đồng bộ các khâu sản xuất nguyên liệu, chế biến các sản phẩm giá trị gia tăng từ rong biển đảm bảo, hiệu quả, năng suất cao và chất lượng sản phẩm phù hợp nhu cầu của thị trường; Phát triển các phương thức, quy mô, công nghệ trồng phù hợp với từng loài, từng vùng sinh thái; Ưu tiên phát triển các loài rong có hàm lượng agar, carrageenan, alginate cao;  Đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ, các hệ thống chứng nhận. Phát triển các vùng nuôi thâm canh, ứng dụng công nghệ cao, an toàn sinh học, an toàn môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu… Nhưng quan trọng hơn vẫn là cấp thiết xây dựng một trung tâm nghiên cứu về rong biển để giải quyết đủ giống và công nghệ trồng rong phục vụ cho việc khai thác vùng nước ven biển, tạo việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo cho ngư dân thông qua việc phát triển trồng rong biển.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của giống trong việc “đánh thức” tiềm năng phát triển ngành rong biển ở Việt Nam nên trong “Quy hoạch hệ thống nghiên cứu, sản xuất và cung ứng giống thủy sản đến năm 2020”, Bộ NN&PTNT cũng đã định hướng việc hình thành Trạm nghiên cứu sản xuất giống rong biển (Cam Ranh) thuộc Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Trung và nâng cấp Cơ sở Quý Kim thuộc Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Bắc để lưu giữ, nghiên cứu nhân giống, phòng trị bệnh, chiết xuất sản phẩm và sản xuất giống rong biển kinh tế. Phấn đấu đưa sản lượng giống rong biển từ 10.000 tấn năm 2015 lên 15.000 tấn năm 2020.

Theo Tổng cục Thủy sản, hiện có 7 loài rong kinh tế đang được trồng phổ biến ở Việt Nam gồm, rong nho (Caulerpa lentillifera), rong câu chỉ vàng (Gracilaria tenuistipitata), rong câu thắt (Gracilaria firma), rong câu cước (Gracilariopsis bailinae), rong sụn (Kappaphycus alvarezii), rong bắp sú (Kappaphycus striatus) và rong sụn gai (Eucheuma denticulatum).

 

TSVN
Đăng ngày 15/11/2017
Phương Ngọc
Nuôi trồng

Thời gian tôm đào thải hết kháng sinh

Một câu hỏi thường gặp của người nuôi tôm là: “Tôm mất bao lâu để đào thải hết kháng sinh sau khi ngưng sử dụng?”. Hiểu rõ về thời gian đào thải kháng sinh sẽ giúp người nuôi đưa ra kế hoạch nuôi phù hợp và đảm bảo tôm sạch kháng sinh trước khi xuất bán.

Tôm thẻ
• 09:51 07/10/2024

Lợi ích của việc ứng dụng nông nghiệp tuần hoàn trong nuôi trồng thủy sản

Nông nghiệp tuần hoàn là một phương thức sản xuất nông nghiệp mà các nguồn tài nguyên, vật liệu và chất thải được tái sử dụng và tái chế để tạo ra một hệ thống nông nghiệp bền vững, giảm thiểu tác động đến môi trường.

Tạt vi sinh
• 11:13 06/10/2024

Cá đối: Loài nuôi ghép mang lại lợi ích cho ao tôm

Cá đối với tập tính là loài ăn tạp, do đó khi kết hợp nuôi trong ao tôm, chúng sẽ sử dụng triệt để chất thải của tôm, thức ăn thừa và cả tảo tàn. Điều này giúp môi trường trong ao tôm được cân bằng, đáy ao tốt, tôm sinh trưởng nhanh và hạn chế được một số dịch bệnh.

Cá đối mục
• 09:29 04/10/2024

Loài sứa nắm giữ bí quyết “trường sinh bất tử”

Thế giới tự nhiên bao giờ cũng tồn tại những bí ẩn khó lý giải, điển hình như trường hợp của một loài sứa có khả năng trường tồn gần như vĩnh hằng (dĩ nhiên là trừ khi chúng bị kẻ thù tiêu diệt).

Sứa biển
• 10:29 03/10/2024

Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức bảo vệ rừng ngập mặn

Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái đặc biệt ở vùng cửa sông, ven biển với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng. Hệ sinh thái rừng ngập mặn có vai trò rất quan trọng trong việc ổn định môi trường, ứng phó với tác động cực đoan của biến đổi khí hậu và bảo đảm cân bằng hệ sinh thái.

Rừng ngập mặn
• 15:21 07/10/2024

Loài tảo biển mới đặc hữu của Việt Nam

Các chuyên gia của Việt Nam và Nga đã phát hiện và mô tả một loài tảo mới thuộc chi Mallomonas, phân ngành Ouradiotae (Chrysophyceae, Synurales) dựa trên các mẫu vật thu thập được từ sáu địa điểm thuộc bốn tỉnh của Việt Nam.

Mallomonas doanii sp. nov.
• 15:21 07/10/2024

Giá tôm size lớn giảm nhẹ trong thời gian vừa qua

Trong thời gian gần đây, giá tôm nguyên liệu, cụ thể là tôm size giảm nhẹ tại các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, khiến nhiều bà con gặp khó khăn. Đặc biệt, đối với những hộ nuôi đầu tư mạnh cho trang thiết bị, công nghệ phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ.

Tôm thẻ
• 15:21 07/10/2024

Thời gian tôm đào thải hết kháng sinh

Một câu hỏi thường gặp của người nuôi tôm là: “Tôm mất bao lâu để đào thải hết kháng sinh sau khi ngưng sử dụng?”. Hiểu rõ về thời gian đào thải kháng sinh sẽ giúp người nuôi đưa ra kế hoạch nuôi phù hợp và đảm bảo tôm sạch kháng sinh trước khi xuất bán.

Tôm thẻ
• 15:21 07/10/2024

Xuất khẩu 9 tháng tăng 8,5% và tín hiệu sản phẩm chế biến

Tháng 9 gặp bão lụt lớn nhưng xuất khẩu thủy sản vẫn giữ được đà tăng trưởng để kim ngạch 9 tháng đầu năm 2024 tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, rõ thêm tín hiệu tốt từ sản phẩm chế biến.

Tôm thẻ
• 15:21 07/10/2024
Some text some message..