Giàu hóa Artemia ảnh hưởng đến chất lượng ấu trùng tôm thẻ chân trắng

Một số chỉ số chất lượng tiêu chuẩn của ấu trùng bao gồm tốc độ và kích thước tăng trưởng, tình trạng dinh dưỡng, thành phần sinh hóa của cơ thể và tình trạng gan tụy. Ngoài ra, tình trạng gan tụy có thể là một trong những chỉ số xác định tình trạng sức khỏe của tôm.

Ấu trùng tôm
Chất lượng tôm giống là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình nuôi. Ảnh: Bio Chain

Trong giai đoạn đầu của hậu ấu trùng (PL), việc cho ăn bằng thức ăn tươi sống vẫn cần thiết vì nó mang lại khả năng tiêu hóa cao và ổn định chất lượng nước, đồng thời kích thích các enzyme tiêu hóa. Artemia được xem là nguồn cung cấp dinh dưỡng chính cho PL vì kích thước phù hợp và dễ dàng bảo quản dưới dạng bào nang.

Mặc dù tầm quan trọng to lớn của Artemia như thức ăn sống trong nuôi PL, nhưng vẫn còn thiếu một số chất dinh dưỡng thiết yếu cần thiết cho sự phát triển và tăng trưởng của tôm. Cụ thể hơn, sự thiếu hụt lipid thiết yếu cho PL đã được báo cáo, đặc biệt là các axit béo không bão hòa đa chuỗi dài (LC-PUFA) như axit arachidonic (ARA), axit eicosapentaenoic (EPA) và axit docosahexaenoic (DHA).

Việc làm giàu Artemia có vai trò cơ bản trong việc cải thiện dinh dưỡng ở các giai đoạn ấu trùng được sản xuất thương mại, vì Artemia được làm giàu bằng HUFA chứa các chất dinh dưỡng cần thiết cho cá và ấu trùng giáp xác biển để cải thiện sự tăng trưởng, khả năng sống sót và biến thái thành công của chúng.

Một số tác giả đã ghi nhận rằng việc làm giàu Artemia bằng HUFA ở các loài tôm giúp cải thiện chất lượng và tỷ lệ sống của PL khi tiếp xúc với các điều kiện căng thẳng của môi trường. Tuy nhiên, hiện có rất ít thông tin ở cấp độ mô học về tác động của HUFA đối với tình trạng gan tụy của tôm PL.

Bài viết này được nghiên cứu ở trại sản xuất tôm giống ở Ecuador cho thấy tác động tích cực của việc làm giàu Artemia bằng nhũ tương vi tảo đối với năng suất tăng trưởng, quá trình sinh hóa, chu vi và cấu trúc mô học gan tụy của ấu trùng tôm thẻ.

Một thí nghiệm kéo dài 12 ngày đã được tiến hành để điều tra tác động của việc làm giàu Artemia với các nghiệm thức: nghiệm thức A ( Artemia làm giàu với nhũ tương vi tảo thử nghiệm A và chế độ ăn khô), nghiệm thức B ( Artemia làm giàu với nhũ tương vi tảo thử nghiệm B và chế độ ăn khô) và Artemia không làm giàu ( Artemia không bổ sung dinh dưỡng và chế độ ăn khô).

Khi kết thúc thí nghiệm, chiều dài (mm), hệ số biến thiên kích thước quần thể, số lượng hậu ấu trùng trong một gam trọng lượng (PL-gram), thành phần sinh hóa, thành phần axit béo, chu vi gan tụy và tình trạng mô bệnh học gan tụy của  PL12 (giai đoạn 12) đã được phân tích. 

Kết thúc thí nghiệm tăng trưởng không thể hiện sự khác biệt giữa các phương pháp điều trị; tổng chiều dài lần lượt là 10,17 mm, 10,83 mm và 10,27 mm và PL-gram lần lượt là 141,00, 162,00 và 142,33 đối với nghiệm thức A, nghiệm thức B và nghiệm thức không làm giàu. 

Thành phần sinh hóa của hậu ấu trùng (hàm lượng lipid, tro và protein) không có sự khác biệt giữa ba nghiệm thức. Sự khác biệt đáng kể đã được quan sát thấy trong hàm lượng của ba axit béo thiết yếu (DHA, DPA và ARA) ở tôm thẻ chân trắng hậu ấu trùng được nuôi bằng Artemia giàu nhũ tương. Như vậy, hàm lượng DHA vượt trội đáng kể ở động vật được nuôi bằng Artemia bổ sung ở nghiệm thức A và B (9.8 và 9.75) so với động vật được nuôi bằng Artemia không được làm giàu (5.76). 

Liên quan đến axit arachidonic (ARA), phương pháp điều trị A và B cho kết quả 3.31% và 3.19% cao hơn so với hậu ấu trùng được nuôi bằng Artemia không làm giàu (2.73%). Về hàm lượng DPA, nghiệm thức A và B báo cáo giá trị MA và MB cao hơn (0.81% và 0.86%), so với Artemia không được làm giàu (0.42%). Ngoài ra, sự gia tăng hàm lượng DHA, DPA và ARA trong hậu ấu trùng trùng khớp với sự gia tăng chu vi gan tụy.  

Lipid và axit béo (TFA%) của Artemia được làm giàu bằng cả hai loại nhũ tương thử nghiệm không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các phương pháp điều trị (TA và TB) (TFA%). Artemia nuôi bằng vi tảo A (MA) chiếm 19,8% lipid; Artemia nuôi bằng vi tảo B (MB) có hàm lượng lipid là 17,76%; và Artemia không giàu hóa chứa 17,3% lipid. Hàm lượng DHA trong Artemia được làm giàu tăng từ 0,61 lên 3,15% TFA so với Artemia không được làm giàu. Hàm lượng DPA ở Artemia làm giàu tăng từ 0,23 lên 0,65% so với Artemia không làm giàu. Hàm lượng ARA và EPA rất giống nhau ở ba nghiệm thức. 

Chúng tôi quan sát tình trạng gan tụy của mẫu tôm  PL hàng ngày dưới kính hiển vi quang học. Màu nâu quan sát thấy ở gan tụy là dấu hiệu cho thấy các thông số sức khỏe tốt. Vì cơ quan này rất nhạy cảm với các chế độ ăn khác nhau nên việc giảm kích thước dễ dàng cho thấy những tác động tiêu cực. Vào cuối thử nghiệm, chu vi gan tụy ở tôm PL được nuôi bằng Artemia giàu dinh dưỡng lớn hơn đáng kể so với tôm PL không được nuôi dưỡng. Do đó, dường như việc cho PL ăn con mồi sống được làm giàu HUFA có lợi cho sức khỏe của tôm và được phản ánh trong kích thước gan tụy của chúng.

Gan tụy
Ảnh của một mặt cắt dọc của gan tụy từ hậu ấu trùng được nuôi bằng Artemia giàu và không giàu khác nhau

- Vi tảo A: số lượng lớn tế bào B (mũi tên xanh), ống phát triển tốt (mũi tên đen) và các ống giãn nở rõ ràng (dấu hoa thị). 

- Vi tảo B: tăng số lượng túi xung quanh tế bào B rõ ràng, khỏe mạnh và các ống giãn nở (dấu hoa thị). Ống trung tâm cũng giãn ra (mũi tên đôi màu xanh). Không làm giàu: ít tế bào B hơn và có sự hiện diện của mô thoái hóa (mũi tên xanh).

Chúng tôi lưu ý rằng gan tụy của PL được nuôi bằng artemia làm giàu với cả hai loại nhũ tương thử nghiệm khỏe mạnh và có cấu trúc tốt, với một số lượng lớn tế bào B phát triển tốt và các ống thận giãn ra, trong số các quan sát tích cực khác do sự gia tăng bài tiết của gan tụy trùng với hàm lượng axit béo không bão hòa cao hơn như DHA, DPA và axit arachidonic (ARA). Gan tụy của của tôm post được nuôi bằng artemia không làm giàu thường có một phần lớn mô thoái hóa xung quanh cơ quan.

Dựa trên kết quả của nghiên cứu này, 12 ngày nuôi cấy là đủ để tăng đáng kể hàm lượng axit béo không bão hòa, chẳng hạn như DHA, DPA và ARA trong L. vannamei PL bằng cách làm giàu Artemia bằng nhũ tương vi tảo có công thức góp phần nâng cao chất lượng sản xuất ra PL chất lượng. Ngoài ra, việc làm giàu HUFA đã cải thiện tình trạng gan tụy và sức khỏe của hậu ấu trùng về kích thước, số lượng tế bào B và túi cũng như số lượng ống khỏe mạnh.

Theo Global Seafood

Đăng ngày 27/08/2023
Minh Minh @minh-minh
Khoa học

Ảnh hưởng của nhiệt độ lên tỉ lệ giới tính ấu trùng tôm sú

Ở tôm sú, con cái lớn nhanh và có kích thước lớn hơn con đực. Tác động của nhiệt độ có thể làm tăng đáng kể sự biểu hiện của các gen xác định giới tính, giúp cải thiện tỷ lệ giới tính như mong muốn trong đàn.

tôm sú
• 16:28 23/09/2021

Trung Quốc chuyển sang nuôi tôm sú vì giá cao

Người nuôi tôm ở Trung Quốc đang chuyển sang nuôi tôm sú nhiều hơn do giá tốt hơn, theo Chủ tịch Hiệp hội Thủy sản lớn nhất của Trung Quốc.

tôm sú
• 18:44 17/08/2021

Nuôi tôm thâm canh bổ sung thức ăn tươi sống

Thử nghiệm nuôi tôm sú bằng tảo lục sợi (Chaetomorpha sp.) và ốc (Stenothyra sp.) cho thấy cải thiện tăng trưởng, nâng cao năng suất và tăng cường hấp thu, chuyển hóa thức ăn nhân tạo góp phần giảm chi phí sản xuất cho người nuôi.

ốc cho tôm ăn
• 17:12 28/07/2021

Hiệu quả từ nuôi tôm kết hợp thả cá rô phi xử lý nguồn nước

Hiện nay, nuôi tôm kết hợp cá rô phi xử lý nước ở ấp Vĩnh Điền (xã Long Điền Đông, huyện Đông Hải) được xem là mô hình cho hiệu quả kinh tế cao.

Cá rô phi
• 10:23 19/07/2021

Mô hình CTU-RAS quy mô nông hộ - Giải pháp cho ngành tôm

Nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng đã từng bước khẳng định vị thế trong ngành hàng tôm của Việt Nam, không ngừng gia tăng về diện tích nuôi và sản lượng nuôi.

Tôm
• 08:00 04/11/2025

Tên khoa học của tôm thẻ chân trắng là Penaeus vannamei hay Litopenaeus vannamei?

Nhiều người không khỏi bối rối khi bắt gặp hai tên khoa học của tôm thẻ chân trắng là: Penaeus vannamei và Litopenaeus vannamei. Vậy, đâu mới là danh pháp chính xác theo hệ thống phân loại khoa học hiện đại, và tại sao sự nhầm lẫn này lại tồn tại?

tên khoa học của tôm thẻ chân trắng
• 15:21 17/07/2025

Vắc-xin uống từ vi tảo

Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu đang chịu áp lực bởi các đợt bùng phát dịch bệnh nghiêm trọng, vắc-xin được xem là giải pháp hiệu quả để nâng cao miễn dịch và giảm sự phụ thuộc vào hóa chất. Một xu hướng nổi bật gần đây là ứng dụng vi tảo làm nền tảng sản xuất vắc-xin, mở ra triển vọng phát triển các loại vắc-xin uống bền vững, hiệu quả và ít tốn kém.

Vi tảo
• 10:50 13/06/2025

Nguyên liệu lên men: Một xu hướng mới trong dinh dưỡng thủy sản

Thức ăn thương mại đóng vai trò then chốt trong sản xuất nuôi trồng thủy sản, do chiếm từ 50% đến 70% tổng chi phí sản xuất.

Thức ăn tôm
• 10:50 03/06/2025

Tôm cá có nên ăn Yucca không?

Chiết xuất Yucca schidigera (Yucca) là một giải pháp sinh học đã được sử dụng rộng rãi trong nuôi tôm cá thâm canh, chủ yếu với mục đích giảm khí độc ammonia (NH₃) và cải thiện chất lượng nước.

Yucca
• 13:10 22/12/2025

Tất tần tật về chứng “viêm da” lở loét trên lươn

Bài viết sau đây sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quan về chứng “viêm da” lở loét ở lươn và các biện pháp phòng trị hiệu quả.

Lươn
• 13:10 22/12/2025

Tại sao tôm đồng loạt lột xác vào ngày Rằm?

Trong thực tế nuôi tôm, kinh nghiệm “theo nước, theo trăng” từ lâu đã được người nuôi xem như kim chỉ nam trong quản lý ao.

Tôm lột vỏ
• 13:10 22/12/2025

Đâu là yếu tố quyết định phân khúc cao cấp cho ngành thủy sản?

Người tiêu dùng thường mặc định sản phẩm có mức giá cao hơn mặt bằng chung thuộc phân khúc cao cấp, trong khi thực tế không phải trường hợp nào cũng đúng như vậy.

Thủy sản
• 13:10 22/12/2025

Cá sấu sổng chuồng cắn người ở Tây Ninh, chủ nuôi bị phạt 315 triệu đồng

Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tây Ninh vừa ra quyết định xử phạt hành chính 315 triệu đồng đối với ông N.M.T. (ngụ xã Châu Thành, huyện Dương Minh Châu) do có hành vi nuôi nhốt trái phép cá sấu hoa cà, để sổng chuồng gây thương tích cho người khác.

Cá sấu
• 13:10 22/12/2025
Some text some message..