Làm chủ công nghệ sản xuất giống hải sâm vú quý hiếm

Các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã làm chủ công nghệ sản xuất hải sâm vú và nuôi thương phẩm thành công loài hải sâm quý hiếm này.

hải sâm vú
Nhà hải sâm học, TS Nguyễn Đình Quang Duy bên cạnh nơi ương hải sâm vú trắng.

Ngày 11/3, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III (gọi tắt Viện III) đã tổ chức hội thảo đánh giá kết quả thực hiện đề tài cấp quốc gia “Nghiên cứu khai thác và phát triển nguồn gen hải sâm vú (Holothuria nobilis Selenka, 1867).”

Đây là đề tài nhiệm vụ khoa học-công nghệ quỹ gen cấp quốc gia do Bộ Khoa học – Công nghệ giao Viện III thực hiện với mục tiêu bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030.

Tại hội thảo, TS Nguyễn Văn Hùng, Viện III, chủ nhiệm đề tài này cho biết, hải sâm vú là loại có giá trị kinh tế cao, giá bán trên thị trường từ 1,8-2 triệu đồng/kg, bởi giàu chất dinh dưỡng (axit amin cao) cũng như được sử dụng làm dược liệu giúp tăng hệ miễn dịch, rất tốt cho sức khỏe cho con người.

Vì vậy, hải sâm vú bị khai thác gần như cạn kiệt trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Từ đó, Liên minh bảo tồn Thiên nhiên nhiên quốc tế (IUCN) xếp vào loài nguy cấp sắp tuyệt chủng. Việt Nam ghi nhận vào sách đỏ và đưa danh mục bảo tồn lưu giữ nguồn gen quí hiếm quốc gia cần bảo tồn. Cho đến nay, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về đối tượng này kể cả trong và ngoài nước. Trước thực trạng đó, lần đầu tiên ở Việt Nam, Bộ KH-CN cấp kinh phí cho Viện III thực hiện nghiên cứu và sinh sản và phát triển nguồn gen hải sâm vú với thời gian thực hiện từ tháng 10/2017 đến tháng 3/2022.

Hải sâm vú
Hải sâm vú bị khai thác gần như cạn kiệt trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Ảnh MH

Kết quả, nhóm nghiên cứu đã xác định được các đặc điểm sinh học sinh sản bao gồm các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục con cái và con đực, cũng như xác định con cái thành thục từ tháng 1 đến tháng 4 và mùa sinh sản chính từ tháng 4 đến tháng 9 trong điều kiện vùng biển Nam miền Trung.

Bên cạnh đó đề tài tiến hành các thí nhiệm sinh sản nhân tạo hải sâm vú và xác định phương pháp kích thích sinh sản bằng phương pháp shock nhiệt đối với hải sâm vú thành thục là có hiệu quả cao. Các giai đoạn phát triển phôi, biến thái ấu trùng và đăc tính từng giai đoạn cũng được ghi nhận chi tiết. “Đề tài xác định mật độ ương 0,6 con/ml cho tỷ lệ sống và tăng trưởng cao ở giai đoạn ương ấu trùng sống nổi và thức ăn sử dụng ở giai đoạn này là các loại tảo tươi có chất lượng.

Còn ở giai đoạn ương ấu trùng sống bám đáy thì mật độ ương thích hợp 1-5 con/cm2 nền đáy; thức ăn sử dụng tảo đáy đơn bào navicular/nitzchia kết hợp spirulina và fripack. Nếu cho ấu trùng giai đoạn này bám ở tôn nhựa sẽ cho tỷ lệ sống rất sao”, TS Nguyễn Văn Hùng chia sẻ và khẳng định nhóm nghiên cứu đã sản xuất thành công giống hải sâm vú nhân tạo rất ổn định, cũng như đã làm chủ công nghệ sản xuất giống.

Ngoài ra, đề tài đã triển khai các mô hình nuôi thương phẩm ở nhiều loại mô hình và điều kiện khác nhau nhằm mục tiêu xác định các chỉ tiêu kỹ thuật xây dựng mô hình nuôi thương phẩm phát triển nguồn gen. Mô hình nuôi thương phẩm 2 giai đoạn được đánh giá hiệu quả nhất, nuôi hải sâm trong lồng treo giai đoạn con giống đến 200 g/cá thể và tiếp tục nuôi trong lồng chìm đến kích thước thương phẩm. 

Tại hội thảo, đại biểu đánh giá, đề tài đã đạt được các mục tiêu đề ra tạo được con giống nhân tạo chủ động và phát triển thành đối tượng nuôi biển và tái tạo nguồn lợi quý hiếm. Tuy nhiên các đại biểu cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu nuôi mô hình sinh thái, nuôi xa bờ hải đảo được dự kiến có tính khả thi cao và hiệu quả đối với loài hải sâm vú. TS Nguyễn Thị Thanh Thùy (Viện III) cho biết, bệnh thường gặp ở hải sâm nuôi thương phẩm như bệnh rong bám, bệnh ngoại ký sinh trùng và bệnh lở loét. Về biện pháp phòng bệnh cho hải sâm chủ yếu thông qua việc vệ sinh lồng nuôi, bể nuôi thường xuyên để loại trừ rong bám và ký sinh trùng. Còn trị bệnh lở loét bằng cách tắm kháng sinh Doxycyline nồng độ 50ppm/3 giờ mỗi ngày, liên tục trong 7 ngày.

Nông nghiệp Việt Nam
Đăng ngày 15/03/2022
Kim Sơ - Minh Hậu
Khoa học

Điểm sáng từ cho lai cá mú trân châu và cá mú nghệ

Được biết cá mú lại hay còn gọi là cá mú trân châu, cá này là con lai giữa cá mú nghệ đực (Epinephelus lanceolatus) tên tiếng anh giant grouper là và cá mú cọp cái (Epinephelus fuscoguttatus) tên tiếng anh là tiger grouper.

Cá mú
• 10:54 16/10/2024

Biện pháp phòng vệ chống lại vi-rút đốm trắng: Bảo vệ qua trung gian RNAi ở tôm

Vi-rút gây hội chứng đốm trắng (WSSV) đe dọa đáng kể đến ngành nuôi tôm trên toàn thế giới.

Tôm bệnh đốm trắng
• 09:00 10/10/2024

Những lưu ý khi sử dụng Probiotics trong nuôi trồng thủy sản

Hệ sinh thái của các thủy vực nuôi trồng thủy sản (NTTS) luôn thay đổi, việc duy trì sức khỏe và sản lượng của các loài thủy sản là rất quan trọng. Probiotics đã nổi lên như một giải pháp hiệu quả trong nỗ lực này, cung cấp một cách tiếp cận tự nhiên và lâu dài để cải thiện sự tăng trưởng, tăng khả năng miễn dịch và giảm tỷ lệ mắc bệnh (Singh và cộng sự, 2023).

Tôm giống
• 09:51 09/10/2024

Bán tín chỉ carbon biển

Trung tâm Hợp tác Quốc tế về Nuôi trồng Thủy sản và Nghề cá Bền vững (ICAFIS) thuộc Hiệp hội Nghề cá Việt Nam, hợp tác với JAPIFoods của Công ty Cổ phần WinEco Việt Nam, đã phát động chương trình “Blue Ocean – Blue Foods”. Sáng kiến ​​này nhằm mục đích tạo ra một bể chứa carbon biển cho ngành thủy sản, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện môi trường biển và phát triển sinh kế cộng đồng.

Rong biển
• 10:48 08/10/2024

Nuôi cá chạch lấu mang lại giá trị kinh tế cao

Trong những năm gần đây, ngành nuôi trồng thủy sản đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ, không chỉ mang lại nguồn thu nhập lớn cho người nông dân mà còn góp phần phát triển kinh tế địa phương.

Cá chạch lấu
• 04:19 28/10/2024

Phấn đấu ương dưỡng giống cá tra hao hụt dưới 85%

Ương dưỡng giống cá tra hiện nay, tỷ lệ hao hụt trên 90% và Cục Thủy sản đặt mục tiêu phấn đấu trong thời gian tới giảm xuống dưới 85%, tỷ lệ cá sống đạt 15-20%.

Cá tra giống
• 04:19 28/10/2024

Tối ưu việc cho ăn giúp giảm hao hụt thức ăn khi nuôi tôm

Thức ăn trong nuôi tôm là yếu tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng của tôm. Ngoài ra, chi phí thức ăn cũng chiếm phần lớn lượng vốn mà người nuôi bỏ ra. Chi phí này ảnh hưởng khá lớn đến năng suất và hiệu quả nuôi.

Cho tôm ăn
• 04:19 28/10/2024

Một số cách hạn chế tiếp xúc điện nguy hiểm ở ao tôm khi có mưa

Trong nuôi tôm, an toàn điện luôn là một yếu tố quan trọng, đặc biệt khi mưa gió xuất hiện, làm tăng nguy cơ xảy ra sự cố về điện. Do các thiết bị điện thường được sử dụng quanh ao tôm như hệ thống sục khí, máy bơm nước hay đèn chiếu sáng, người nuôi cần biết cách hạn chế tối đa rủi ro tiếp xúc với điện.

An toàn điện
• 04:19 28/10/2024

Nuôi nước trước, nuôi tôm sau: Bí quyết giúp tăng hiệu quả trong nuôi tôm

Chuẩn bị và quản lý nguồn nước trước khi thả tôm vào ao là một yếu tố vô cùng quan trọng, thậm chí có thể nói là yếu tố quyết định đến sự thành bại của vụ nuôi. Câu nói “nuôi nước trước, nuôi tôm sau” đã trở thành kim chỉ nam cho nhiều người nuôi tôm thành công.

Tôm thẻ
• 04:19 28/10/2024
Some text some message..