Nói cách khác, hiện nay, việc sử dụng kháng sinh để phòng, trị bệnh, không còn hiệu quả, hầu hết vi khuẩn đều lờn thuốc. Năm 2024 vi khuẩn Vibrio, với các chủng V. parahaemolyticus; V. harveyi; V.vulnificus; V. alginolyticus; V. cholerae gây ra các bệnh gan tụy, phân trắng, lỏng ruột hay bệnh vi bào tử trùng EHP (Enterocytozoon hepatopenaei) gây bệnh chậm lớn trên tôm, bệnh mờ đục hậu ấu trùng TPD gây chết tôm postlarvae thả nuôi trong 1 – 2 tuần đầu, gây thiệt hại nặng nề cho vùng tôm nguyên liệu khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trong 4 tháng đầu năm 2025, dịch bệnh trên vẫn gây thiệt hại đáng kể cho khu vực nuôi tôm lớn nhất cả nước như Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bến Tre…Nhiều loại thuốc diệt khuẩn được bà con sử dụng trước nay như Chlorine, Vikon, Iodine, BKC…đến thời điểm hiện tại, phần do chất lượng hóa chất không đảm bảo, phần do bà con nuôi tôm sử dụng thường xuyên gây lờn hoá chất trên vi khuẩn, do vậy không còn khả năng diệt những tác nhân gây bệnh trên.
AMPs viết tắt từ (AntiMicrobial Peptides) hay Peptide kháng khuẩn. Peptide với nhiều dạng cấu trúc khác nhau như cấu trúc α, cấu trúc β, cấu trúc vòng…Cơ chế tác động của AMPs lên vi khuẩn gây bệnh bao gồm Cơ chế tác động lên màng tế bào vi khuẩn, trong đó mô hình phanh gầu: Các peptide kháng khuẩn hình thành các lỗ chân lông cho phép các thành phần tế bào thoát ra ngoài. Mô hình lỗ hình khuyên: hình thành lỗ ổn định để phá vỡ tính toàn vẹn của màng tế bào vi khuẩn. Mô hình thảm: Các peptide kháng khuẩn bao phủ màng tế bào vi khuẩn như một tấm thảm, dẫn đến sự phân hủy của màng tế bào. Cơ chế không tác động lên màng tế bào, trong đó chức năng chính bao gồm: Ức chế tổng hợp protein và axit nucleic. Ức chế quá trình gấp protein và can thiệp vào chức năng tế bào. Ức chế quá trình tổng hợp thành tế bào. Trung hòa độc tố vi khuẩn và giảm tác hại của mầm bệnh. Việc Peptide kháng khuẩn ức chế vi khuẩn, ngăn khả năng tổng hợp và trao đổi chất, dẫn đến tiêu diệt vi khuẩn đồng loạt, triệt để, hiệu quả.
Với những cơ chế tác động hiệu quả của AMPs lên vi khuẩn gây bệnh như trên, việc sử dụng thức ăn có Peptide kháng khuẩn trong nuôi tôm thẻ chân trắng, thông qua lựa chọn thức ăn có bổ sung peptide kháng khuẩn, giúp người nuôi chủ động phòng bệnh tôm hiệu quả, tiết kiệm chi phí, an toàn môi trường nuôi, an toàn cho tôm nuôi, an toàn cho người sử dụng tôm thương phẩm. Qua phân tích một số mẫu thức ăn đang lưu hành trên thị trường cho thấy, hiện nay một số công ty sản xuất thức ăn tôm như ANT, Grobest…đã chủ động bổ xung peptide kháng khuẩn vào thức ăn.
Thực tế cho thấy, những mô hình nào bà con sử dụng thức ăn có bổ sung peptide kháng khuẩn, tôm có sức đề kháng tốt, khi tôm nhiễm bệnh có đủ sức khoẻ để lướt qua. Tôm tăng tiêu hoá, tăng hấp thu thức ăn, tỷ lệ chuyển hóa thức ăn thành thịt cao, tôm tăng trưởng và rút size nhanh, vỏ bóng đẹp, gan đen, ruột to, đầy thức ăn, hoạt động bắt mồi mạnh. Nuôi tôm hiện tại và tương lai, việc sử dụng thuốc, hoá chất, phòng trị bệnh tôm không mang lại hiệu quả, ngoài ra, việc tốn kém chi phí, gây ô nhiễm môi trường nuôi, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng…sẽ làm giảm giá trị hàng hoá của mặt hàng này. Sử dụng thức ăn có bổ sung peptide kháng khuẩn, dinh dưỡng lên men, đạm lên men…là xu thế nuôi trồng thuỷ sản giảm tác động đến môi trường, an toàn và bền vững mô hình nuôi, tăng giá trị sản phẩm khi xuất bán.