Tại sao cá killifish phát triển mạnh trong môi trường ô nhiễm

Bài viết này giải quyết một câu đố về tiến hóa: Tại sao cá killifish Đại Tây Dương có thể phát triển mạnh trong nước bị ô nhiễm nặng?

killifish

Trong bốn thập kỷ, chất thải từ các nhà máy sản xuất lân cận đã chảy vào vùng biển New Bedford Harbor - một khu vực rộng 18.000 mẫu Anh và là một cảng biển sầm uất. Bến cảng bị nhiễm hóa chất polychlorinated biphenyls (PCBs) và kim loại nặng, là một trong những vị trí dọn dẹp lớn nhất thuộc chương trình Superfund của Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ (Environmental Protection Agency – EPA). Superfund là một chương trình môi trường được thành lập vào năm 1980 để xử lý những vùng có hóa chất độc hại bị bỏ hoang.

Vùng cảng biển New Bedford Harbor cũng là vị trí của một câu đố về tiến hóa mà các nhà nghiên cứu tại viện nghiên cứu Hole Oceanographic Institution (WHOI) các đồng nghiệp của họ đang tìm cách trả lời.

Cá killifish Đại Tây Dương – những con cá sống ở cửa sông dài khoảng 3 inch – không chỉ chịu đựng được môi trường độc hại ở bến cảng, dường như chúng còn phát triển mạnh ở đó. Bằng cách nào mà những con cá này có thể thích nghi và sống trong môi trường bị ô nhiễm nặng như vậy? Trong một bài báo mới được công bố trên tạp chí Evolutionary Biology, các nhà nghiên cứu công bố phát hiện về những thay đổi trong mộtprotein thụ thể, có tên gọi là aryl hydrocarbon thụ thể 2 (AHR2), có thể giải thích cách thức mà cá killifish ở cảng New Bedford Harbor đã phát triển sức đề kháng di truyền đối với hóa chất PCBs.

Killifish là cá săn mồi không di cư. Chúng sống toàn bộ cuộc đời trong cùng một khu vực, thường là trong vòng vài trăm mét xung quanh nơi chúng đã nở ra. Không giống như các loài cá khác có thể bơi vào và ra khỏi cảng một cách không thường xuyên trong suốt những tháng mùa hè để kiếm ăn, những con cá killifish sống ở khu vực của nó trong suốt năm và mùa đông đào hang trú ẩn trong lớp trầm tích bị ô nhiễm.

Thông thường khi cá bị tiếp xúc với các chất hóa học nguy hại, cơ thể sẽ thúc đẩy sản sinh ra các enzyme phá hủy các chất ô nhiễm, một quá trình được kiểm soát bởi protein AHR2. Một số hóa chất PCBs không bị phá hủy theo cách này, và kích thích tiếp tục điều khiển AHR2 phá vỡ các chức năng của tế bào, dẫn tới ngộ độc. Trong cá killifish khu cảng New Bedford Harbor, hệ thống AHR2 trở thành bền đối với tác động này.

“Cá killifish phải quản lý nhằm tắt lối vào”, Mark Hahn, một nhà sinh học tại viện nghiên cứu WHOI và là đồng tác giả của bài báo nói trên cho biết. “Đây là một ví dụ về cách mà một số các chất ô nhiễm có thể được thích nghi để biến đổi trong môi trường của chúng”.

Nhóm nghiên cứu gồm các đồng nghiệp đến từ Khoa Sinh Thái Đại Tây Dương thuộc Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ, trường Sức Khỏe cộng đồng thuộc Đại học Boston, và trường Đại học Bắc Carolia tại Charloote, đã sử dụng một tiếp cận “gene chỉ thị” giải trình tự phần mã hóa protein của ba gene kháng thể (AHR1, AHR2, AHRR) trong các mẫu cá thu thập từ khu vực cảng biển này và tại 6 vị trí khác, cả tại khu vực còn sạch và khu vực đã bị ô nhiễm, nằm dọc bờ biển phía Đông Bắc.Để tìm kiếm đa hình 1 nucleotit (single nucleotide polymorphisms hay viết tắt là SNPs) hoặc các biến thể phụ trong chuỗi ADN, họ đã phát hiện thấy các khác biệt trong AHR2, thể hiện một vai trò quan trọng trong việc làm trung gian hóa giải độc tính trong giai đoạn đầu đời.

“Chức năng của thụ thể này là trung gian hóa giải các tác động của độc chất”, Sibel Karchner, một đồng tác giả và nhà sinh vật học tại phòng thí nghiệm của Hahn nói. “Nếu bạn không có một thụ thể chức năng, bạn sẽ không gặp phải các tác động độc chất nhiều như loài cá đã gặp phải”.

AHR2 trong cá killifish có 951 axit amin và 9 trong số đó khác nhau giữa các cá thể. Các kết hợp khác nhau của các biến thể axit amin dẫn tới 26 loại protein khác nhau.

“Chúng tôi thấy rằng các kiểu biến thể có trong cá killifish cảng New Bedford Harbor khác hơn nhiều so với các kiểu ở các khu vực lân cận, là bất ngờ trong các hoàn cảnh bình thường”, Hahn nói. “Có một vài biến thể protein là phổ biến ở cá killifish cảng New Bedford Harbor, nhưng là không phổ biến ở những nơi khác. Tương tự như vậy, các biến thể protein phổ biến nhất trong các khu vực so sánh lại ít phổ biến hơn trong cá killifish cảng New Bedford Harbor”.

Một bài báo khác đã được trình bày trên tạp chí BMC Evolutionary Biology bởi các đồng nghiệp tại phòng thí nghiệm EPA tại Narragansett, RI, đã sử dụng một tiếp cận “scan gene chỉ thị” – nghiên cứu SNPs từ 42 gene liên kết với lối vào của AHR – cũng đã xác định được AHR2 là một gene xuất hiện dưới sự lựa chọn và có thể tham gia vào cuộc chiến chống lại độc chất. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, sự tiến hóa của các sức đề kháng trong quần thể độc lập của cá killifish hội tụ trên cùng một gene mục tiêu.

“Các kết quả của những nghiên cứu này và các phương pháp di truyền được phát triển trong tiến trình thực hiện những nghiên cứu này đang giúp phân tích chi tiết về cách mà tiến hóa xảy ra ở một giai đoạn hiện tại (hơn là so với thuộc địa chất) và tại sao một số loài, dường như thích nghi với một thế giới biến đổi một cách nhanh chóng hơn”, Diane Nacci, một nhà sinh học tại EPA và là đồng tác giả của cả hai bài báo trên nói.

AHR2 cũng là cùng một gene đã được xác định trong một bài báo xuất bản trên tạp chí Science năm 2011, bởi các nhà sinh học của WHOI và các đồng nghiệp từ Đại học New York và NOAA về cá tuyết kháng PCB đến từ sông Hudson. Protein AHR2 trong cá tuyết sông Hudson đang thiếu hai trong số 1.104 axit amin thường được tìm thấy trong protein này.

"Mặc dù những thay đổi phân tử cụ thể được tìm thấy trong kháng thể cá tuyết và cá killifish PCB chịu khác nhau, trong cả hai loài AHR2 có vẻ là một trong những gene - có thể là gene quan trọng - đó là chịu trách nhiệm cho cuộc chiến chống lại độc chất", Hahn cho biết.

Trong khi chính cá killifish miễn dịch với các tác dụng độc hại của PCBs, họ vẫn có thể chuyển các chất gây ô nhiễm vào chuỗi thức ăn. Cá killifish là một nguồn thức ăn quan trọng đối với cá bạc má (bluefish), cá pecca sọc và những loài cá khác bị con người ăn thịt.

Bất chấp vẻ ngoài khỏe mạnh của chúng, có thể có những tổn hại tiêu cực chưa được biết đối với cá killifish liên quan tới việc đề kháng PCBs. Các nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục xem xét xem, sự thích nghi này gây ảnh hưởng thế nào tới cách mà cá killifish có khả năng phản ứng đáp trả đối với các nhân tốt gây căng thẳng khác trong môi trường sống của chúng, ví dụ như nồng độ oxy thấp.

"Rõ ràng, sự thật là loài cá này kháng lại PCBs cho phép chúng sống sót trong môi trường thực sự ô nhiễm này, nhưng chuyện gì sẽ xảy ra một khi hải cảng này được làm sạch? Có thể có tổn thất làm nó không còn phù hợp cho những con cá sống ở đó”, Hahn nói.

"Đó là một ví dụ thú vị về cách mà các hoạt động của con người có thể tác động tới tiến hóa", ông nói thêm. “Khả năng thích nghi với các điều kiện biến đổi ngày càng trở nên quan trọng hơn khi con người tác động tới môi trường, bất kể là từ việc axit hóa các đại dương hoặc nhiệt độ gia tăng hay những biến đổi toàn cầu khác đang diễn ra”.

Ngoài Hahn và Karchner, các nhà nghiên cứu WHOI tham gia vào nghiên cứu này bao gồm tác giả Adam Reitzel (hiện tại là một giáo sư trợ lý tại Đại học Bắc Carolina ở Charlotte) và Diana Franks. Công trình nghiên cứu này được hỗ trợ bởi Viện nghiên cứu quốc gia về Khoa học sức khỏe môi trường (National Insitute of Environmental Health Sciences), thông qua Chương trình Superfund Research Program tại Đại học Boston, Hudson River Foundation, và một khoản trợ cấp từ Cơ quan Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (National Science Foundation).

Khoahoc.com.vn,15/02/2014
Đăng ngày 16/02/2014
Phạm Thị Bích Thu
Khoa học

Lipid sinh học của tôm: Một kho báu dinh dưỡng

Các thành phần lipid trong tôm là cực kỳ phong phú và có thể mang lại lợi ích về sức khỏe. Một bài đánh giá khoa học do các nhà nghiên cứu từ Đại học Democritus công bố đã đi sâu vào thành phần lipid của nhiều loài tôm khác nhau, tập trung vào lợi ích sức khỏe tiềm năng của các hợp chất hoạt tính sinh học của chúng. Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Marine Drugs của MDPI, giải thích cách các lipid này có thể góp phần phòng ngừa và điều trị các bệnh mãn tính, bao gồm các rối loạn tim mạch, tiểu đường, bệnh thoái hóa thần kinh và ung thư.

Lipid
• 12:00 13/01/2025

Các mục tiêu kháng vi-rút tiềm năng trong quá trình nhiễm vi-rút hoại tử cơ ở tôm thẻ chân trắng

Trong những năm gần đây, giải trình tự phiên mã đã được áp dụng rộng rãi để nghiên cứu tương tác giữa virus và vật chủ. Bằng cách so sánh các hồ sơ biểu hiện gen vật chủ ở các giai đoạn nhiễm khác nhau, các nhà nghiên cứu có thể xác định các yếu tố chính và những thay đổi trong đường dẫn truyền tín hiệu do nhiễm virus gây ra, giúp nhận định được các chiến lược xâm nhập của virus và cơ chế kháng vi-rút của vật chủ.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:53 18/12/2024

Hướng đi mới trong nuôi trồng thủy sản: Mô hình Aquaponics

Mô hình Aquaponics đang được xem là một trong những giải pháp đột phá cho ngành nuôi trồng thủy sản trong thời kỳ hiện đại. Không chỉ kết hợp hiệu quả giữa nuôi thủy sản và trồng cây trong hệ thống tuần hoàn khép kín, mô hình này còn tối ưu hóa tài nguyên, mang lại lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường.

Mô hình Aquaponics
• 14:27 16/12/2024

Giải pháp công nghệ hiện đại trong kiểm soát rận biển trên cá hồi

Rận biển, một loại ký sinh trùng nguy hiểm, đang trở thành vấn đề lớn trong ngành nuôi trồng cá hồi. Chúng không chỉ gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe cá mà còn làm giảm năng suất và gia tăng chi phí sản xuất.

Cá hồi
• 10:20 12/12/2024

Ảnh hưởng của dinh dưỡng đến tỷ lệ sống của tôm giống

Trong nuôi tôm giống, dinh dưỡng đóng vai trò cực kỳ quan trọng quyết định đến tỷ lệ sống và khả năng phát triển của tôm. Tôm giống khỏe mạnh, phát triển đều đặn không chỉ giúp người nuôi đạt năng suất cao mà còn giảm thiểu rủi ro trong suốt quá trình nuôi. Để đạt được điều này, người nuôi cần hiểu rõ vai trò của dinh dưỡng và cách tối ưu hóa khẩu phần ăn cho tôm giống.

Tôm giống
• 01:30 19/02/2025

Ứng dụng một số công nghệ trong chế biến và bảo quản thủy sản

Công nghệ chế biến và bảo quản thủy sản đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn chất lượng, kéo dài thời gian sử dụng, và nâng cao giá trị thương mại của các sản phẩm thủy sản.

Thủy sản
• 01:30 19/02/2025

Sinh vật bám phao và ảnh hưởng đến tôm

Trong quá trình nuôi tôm, người nuôi thường quan tâm đến chất lượng nước, thức ăn và các yếu tố môi trường khác. Tuy nhiên, một vấn đề ít được chú ý nhưng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm chính là sự xuất hiện của các sinh vật bám trên phao và các bề mặt khác trong ao nuôi. Những sinh vật này bao gồm thực vật thủy sinh, riêu, tảo và hàu chỉ, có thể tác động đến môi trường ao nuôi và sức khỏe của tôm theo nhiều cách khác nhau. Hiểu rõ về nhóm sinh vật này và cách kiểm soát chúng sẽ giúp người nuôi tối ưu hóa quy trình quản lý ao tôm một cách hiệu quả hơn.

Hàu chỉ
• 01:30 19/02/2025

Ba tỉnh hàng đầu nuôi và xuất khẩu tôm nước lợ

Ngày 14/2/2025, tại tỉnh Bạc Liêu, Bộ NN&PTNT tổ chức hội nghị phát triển ngành tôm nước lợ năm 2025.

Nuôi tôm
• 01:30 19/02/2025

Phê duyệt đề cương nhiệm vụ Đề án phát triển thủy sản giai đoạn 2026 - 2030

Vừa qua, UBND tỉnh Bình Định thông qua Quyết định phê duyệt đề cương nhiệm vụ Đề án phát triển thủy sản giai đoạn 2026- 2030, định hướng đến năm 2050 trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Ngư dân
• 01:30 19/02/2025
Some text some message..