Axit hóa đại dương đã và đang trở thành một mối lo ngại cho toàn nhân loại và được biết đến là một trong những nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu, tẩy trắng các rạn san hô, phá vỡ chuỗi thức ăn tự nhiên, làm rối loạn bản năng sinh tồn của các loài cá và thậm chí hòa tan lớp calcite dưới đáy biển.
Khởi nguồn của hiện tượng axit hóa đại dương
Quá trình phú dưỡng xảy ra khi môi trường trở nên quá giàu chất dinh dưỡng, lượng dinh dưỡng “khổng lồ” này đến từ các loại phân bón hoặc nước cống rãnh bị thải vào môi trường nước, từ đó tạo điều kiện cho các loài thực vật và tảo phát triển mạnh ở các cửa sông và vùng ven biển. Quá nhiều chất dinh dưỡng dẫn đến tảo nở hoa và tạo ra các vùng thiếu hụt ôxy (vùng chết) làm chết cá và cỏ biển. Các xác tảo và thực vật dư thừa dần dần bị phân hủy, tạo ra một lượng lớn CO2. Điều này làm giảm độ pH của nước biển, gây ra hiện tượng axit hóa đại dương.
Costa-Pierce cho biết: “Phú dưỡng là từ ngữ thông dụng, được dùng phổ biến cách đây 40 năm. Và bây giờ mọi người đang gọi nó là “axit hóa đại dương”, họ quên mất rằng đây mới là quá trình cơ bản của những gì đang diễn ra ở các đại dương ven biển.”
Các đại dương ven biển trên thế giới giống như một nhà máy nhiên liệu hóa thạch khổng lồ chứa đầy nitơ. Costa-Pierce nhận định :“Nó đang dần phá hủy và axit hóa đại dương ven biển vì CO2 ở dưới tạo ra nồng độ pH thấp đến mức các loài động vật không thể tạo vỏ và tôm hùm sắp tuyệt chủng ở miền nam New England. Không chỉ thế, nó còn dẫn đến giảm sản lượng khai thác thủy sản thương mại, điều này đồng nghĩa với việc thu hoạch ít hơn và hải sản đắt hơn”.
Giải pháp cho tương lai
Mới đây, Ủy viên về Môi trường, Đại dương và Ngư nghiệp của Ủy ban châu Âu, ông Virginijus Sinkevicius dẫn báo cáo vừa được công bố của Cơ quan Môi trường châu Âu (AEE) cho biết, tình trạng axit hóa của đại dương trong các thập kỷ qua đã cao hơn 100 lần so với sự chuyển biến của thiên nhiên cách đây 55 triệu năm.
Để giảm tốc độ của hiện tượng đáng lo ngại này, các nhà khoa học đã từng có những đề xuất như hấp thụ axit dư thừa bằng cách thả sắt, đá vôi hoặc đá olivin xuống biển, thúc đẩy các sinh vật phù du sinh trưởng, thêm các khối cư trú cho các loài giáp xác hoặc hấp thụ CO2 theo phương pháp hóa học.
Theo Cơ quan Quản trị Khí quyển và Đại dương Quốc gia (NOAA), 65% các cửa sông và vùng nước ven biển ở vùng tiếp giáp của Hoa Kỳ đã bị suy thoái từ mức độ vừa đến nghiêm trọng do sự dư thừa chất dinh dưỡng. Giải pháp tạm thời của họ là lợi dụng tập tính ăn lọc của loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ để cải thiện tình trạng này.
Cây con của loài tảo bẹ Ecklonia radiata phát triển trên một mảnh "sỏi xanh", sẽ được triển khai trong đại dương. Ảnh: Nahlah Alusuwaiyan
Một kết quả nghiên cứu của Stein Fredriksen và cộng sự đang phát triển một kỹ thuật có tên gọi là “Green gravel” - một công cụ mới giúp tái tạo và ngăn chặn sự suy giảm rừng tảo bẹ. Với kỹ thuật này, những tảng đá nhỏ được gieo hạt tảo bẹ và nuôi trong phòng thí nghiệm cho đến khi có kích thước từ 2 đến 3 cm trước khi đem trồng. Kỹ thuật này được cho là tiết kiệm chi phí, đơn giản và an toàn.
Tuy có rất nhiều giải pháp, đề xuất được tiến hành, song tính thực tiễn vẫn chưa cao và những nguyên nhân tiềm ẩn về tác hại của hiện tượng axit hóa đại dương vẫn còn nhiều uẩn khúc. Costa-Pierce nhận định rằng “Chúng ta phải ngừng sử dụng đại dương như một kho chứa chất thải của chúng ta. Chuyển đường ống vào đất liền và tái sử dụng nitơ. Có thể sẽ góp phần duy trì được sự sống của đại dương này”.
Nguồn: Lisa Jackson. Ocean acidification isn’t just a carbon story – it’s also about nitrogen, Global Seafood, Responsibility. 28/03/2022