Hiệu quả tài chính giữa hai mô hình thu trứng và sinh khối Artemia ở độ mặn thấp

Artemia từ lâu đã được sử dụng rộng rãi trong các trại giống và là thức ăn không thể thay thế cho hầu hết ấu trùng tôm cá trong giai đoạn đầu, nhất là tôm cá nước lợ vì chúng là loại thức ăn tươi sống, có giá trị dinh dưỡng cao và có kích thước phù hợp.

Artemia
Artemia từ lâu đã được sử dụng rộng rãi trong các trại giống

Artemia có sinh cảnh sống đặc trưng là vùng nước mặn, chỉ được nuôi vào mùa khô (từ tháng 11 âm lịch đến tháng 5 âm lịch năm sau), có độ mặn cao như trên ruộng muối. Do đó, việc mở rộng vùng nuôi rất hạn chế. Ngoài trứng bào xác, nhu cầu về Artemia sinh khối cũng ngày càng tăng vì nhiều kích cỡ khác nhau, phù hợp cho nhiều cỡ miệng của các loài thủy sản.

Hai mô hình nuôi Artemia được bố trí trên ruộng muối ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng trên các ao nuôi diện tích 2.000 m2 (2 ao cho mỗi mô hình). Mật độ thả lần lượt là 200 con/L đối với mô hình nuôi sinh khối và 100 con/L đối với mô hình thu trứng. 

Kết quả cho thấy về yếu tố môi trường nuôi tương tự nhau ở hai mô hình. Mật độ quần thể cao nhất ở mô hình sinh khối là 366 con/L và mô hình thu trứng là 237con/L. 

Mô hình nuôi sinh khối: Sức sinh sản cyst trung bình dao động từ 76 đến 104 phôi/con cái cao nhất ở là 104±39 phôi/con cái và thấp nhất là 70±25 phôi/con cái. Sức  sinh sản nauplius cao nhất là 40±25 phôi/con cái ở tuần 6 và rất thấp ở tuần 2, 3, và 4. Trong mô hình nuôi sinh khối, ở tuần 2 và 3, tỷ lệ đẻ con rất thấp <20% sau đó tăng nhanh ở các tuần tiếp theo từ 8% lên 50% ở tuần 6.

Mô hình thu trứng: Ngược lại với mô hình thu sinh khối thì ở mô hình thu trứng không áp dụng việc thu tỉa do đó sức sinh sản cyst, sức sinh sản nauplii, tỷ lệ đẻ con không có biến động lớn và dao động lần lượt là 72-78 phôi/con cái, 16-20 phôi/con cái và 15-21%.

Số lượng trung bình phôi cysts và phôi nauplius
Số lượng trung bình phôi cysts và phôi nauplius (phôi/con cái/lần), tỷ lệ đẻ con của mô hình nuôi sinh khối (a; n=455) và mô hình thu trứng (b; n=599)

Biến động năng suất sinh khối và cyst
Biến động năng suất sinh khối và cyst ở mô hình nuôi sinh khối (a) và năng suất cyst ở mô hình thu trứng (b)

Kết quả cho thấy năng suất sinh khối ở mô hình nuôi sinh khối là 3.037,6±265,2 kg/ha/vụ cao hơn so với năng suất sinh khối ở mô hình nuôi thu trứng (520,1±11,5 kg/ha/vụ). Ngược lại thì năng suất cyst ở mô hình nuôi thu trứng (71,5±8,5 kg/ha/vụ) cao hơn so với năng suất cyst ở mô hình nuôi sinh khối (14,6±8,1 kg/ha/vụ).

Mô hình nuôi sinh khối: Năng suất sinh khối trung bình từ 187,5 đến 488,75 kg/ha/6 tuần. Năng suất sinh khối đạt 375 kg/ha ở  tuần thức 2, giảm dần từ tuần 2 đến tuần 4, sau đó tăng lên và đạt cao nhất ở tuần thứ 5. Sự biến động năng suất sinh khối phụ thuộc lớn vào việc thu tỉa sinh khối. Điều đó cho thấy rằng khi nuôi Artemia ở độ mặn thấp (60%) nếu quản lý tốt việc thu tỉa thì có thể điều chỉnh được phương thức sinh sản từ đó có thể điều chỉnh được thành phần quần thể nhằm đạt năng suất cao nhất (cyst hoặc sinh khối). Bên cạnh sinh khối thì ao nuôi sinh khối ở độ mặn thấp còn thu được trứng cyst như là sản phẩm phụ của mô hình (dao động 0-7,3 kg/ha/6 tuần), góp phần nâng cao lợi nhuận của mô hình.

Diễn giảiĐơn vịTổng năng suất sinh khốiTổng năng suất trứng
Mô hình sinh khốikg/ha/vụ3.037,6+-265,214,6+-8,1
Mô hình thu trứngkg/ha/vụ520,1+-11,5071,5+-8,5

Tổng năng suất thu hoạch trứng và sinh khối của hai mô hình nuôi

Qua nghiên cứu cho thấy khi nuôi Artemia ở độ mặn thấp (60%) thì nuôi Artemia sinh khối có hiệu quả hơn so với nuôi thu trứng và quản lý việc thu tỉa sinh khối có vai trò quan trọng trong việc quản lý quần thể Artemia nhằm đạt được kết quả tốt nhất. Tuy nhiên, kết quả này có thể giúp người nuôi Artemia lựa chọn mô hình nuôi phù hợp với tình hình biến đổi khí hậu ngày càng hết sức phức tạp.

Ví dụ khi thời tiết không thích hợp cho việc nuôi thu trứng (chưa đủ độ mặn hay độ mặn thấp) thì người nuôi có thể chuyển sang nuôi sinh khối. Bên cạnh đó, đến cuối vụ nuôi khi độ mặn giảm (đầu mùa mưa), người nuôi Artemia có thể kéo dài thời gian nuôi bằng cách chuyển qua nuôi thu sinh khối nhằm mang lại hiệu quả tối ưu cho mô hình nuôi.

Kết quả từ thí nghiệm có thể đưa ra các khuyến cáo cho hộ nuôi trong vùng lựa chọn mô hình nuôi phù hợp với tình hình thị trường và điều kiện của nông hộ để thu lại lợi nhuận cao nhất.

Theo Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ

Đăng ngày 11/10/2023
Minh Minh @minh-minh
Khoa học

Ảnh hưởng của nhiệt độ lên tỉ lệ giới tính ấu trùng tôm sú

Ở tôm sú, con cái lớn nhanh và có kích thước lớn hơn con đực. Tác động của nhiệt độ có thể làm tăng đáng kể sự biểu hiện của các gen xác định giới tính, giúp cải thiện tỷ lệ giới tính như mong muốn trong đàn.

tôm sú
• 16:28 23/09/2021

Trung Quốc chuyển sang nuôi tôm sú vì giá cao

Người nuôi tôm ở Trung Quốc đang chuyển sang nuôi tôm sú nhiều hơn do giá tốt hơn, theo Chủ tịch Hiệp hội Thủy sản lớn nhất của Trung Quốc.

tôm sú
• 18:44 17/08/2021

Nuôi tôm thâm canh bổ sung thức ăn tươi sống

Thử nghiệm nuôi tôm sú bằng tảo lục sợi (Chaetomorpha sp.) và ốc (Stenothyra sp.) cho thấy cải thiện tăng trưởng, nâng cao năng suất và tăng cường hấp thu, chuyển hóa thức ăn nhân tạo góp phần giảm chi phí sản xuất cho người nuôi.

ốc cho tôm ăn
• 17:12 28/07/2021

Hiệu quả từ nuôi tôm kết hợp thả cá rô phi xử lý nguồn nước

Hiện nay, nuôi tôm kết hợp cá rô phi xử lý nước ở ấp Vĩnh Điền (xã Long Điền Đông, huyện Đông Hải) được xem là mô hình cho hiệu quả kinh tế cao.

Cá rô phi
• 10:23 19/07/2021

Blockchain trong truy xuất nguồn gốc trong thủy sản

Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản đang ngày càng chịu áp lực bởi yêu cầu minh bạch, đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm, công nghệ blockchain đang nổi lên như một công cụ đột phá giúp giải quyết nhiều thách thức cốt lõi của ngành. Với khả năng ghi nhận, lưu trữ và xác thực thông tin một cách minh bạch, không thể chỉnh sửa, blockchain đang mở ra hướng đi mới cho việc quản lý chuỗi cung ứng thủy sản từ ao nuôi đến bàn ăn.

Truy xuất nguồn gốc
• 09:00 15/05/2025

Kéo dài thời hạn sử dụng của tôm bằng trường điện xoay chiều điện áp cao

Để kéo dài thời hạn sử dụng của thực phẩm dễ hỏng, các nhà nghiên cứu đã chuyển sang các công nghệ không nhiệt tiên tiến. Một phương pháp đầy hứa hẹn là sử dụng trường điện xoay chiều điện áp cao (HAEF).

Tôm thẻ chân trắng
• 08:00 10/05/2025

Di truyền chọn giống là hành trình cải tiến liên tục

Sản xuất tôm giống nước lợ hiện nay, Cục Thủy sản và Khuyến ngư cho biết, điểm yếu nhất là chưa chủ động được sản xuất vì tôm bố mẹ phụ thuộc nhập khẩu (78,8 % tôm chân trắng) và khai thác tự nhiên (56,9 % tôm sú bố mẹ), kết quả nghiên cứu chọn tạo tôm bố mẹ trong nước còn hạn chế. Chọn tạo giống phải nghiên cứu di truyền, đòi hỏi không ngừng cải tiến để đảm bảo kết quả ổn định, và quá trình này phần nào thể hiện trong hội thảo tại VietShrimp 2005 vừa diễn ra cuối tháng 3/2025 ở Cần Thơ.

Tôm giống
• 10:11 06/05/2025

Công nghệ cảm biến nano phát hiện stress ở tôm: Bí quyết nâng cao tỷ lệ sống

Ngành nuôi tôm Việt Nam đang vươn xa trên thị trường thế giới, mang về nguồn thu lớn cho người dân. Để vụ mùa thêm trúng lớn, công nghệ cảm biến nano chính là chìa khóa mới, giúp phát hiện sớm dấu hiệu stress ở tôm do nước ao, thời tiết hay bệnh tật. Với thiết bị thông minh này, người nuôi dễ dàng theo dõi ao tôm, tăng tỷ lệ sống và đạt năng suất vượt trội, mở ra tương lai bền vững cho nghề nuôi tôm.

Tôm thẻ chân trắng
• 09:47 05/05/2025

GlobalG.A.P: Nhãn GGN thể hiện nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm với việc ghi nhãn chuẩn hóa, dễ hiểu

Mặc dù nhu cầu về thực phẩm có nguồn gốc bền vững ngày càng tăng, người tiêu dùng vẫn gặp khó khăn trong việc xác định nguồn gốc và phương pháp sản xuất của sản phẩm do có quá nhiều loại nhãn hàng khác nhau trên thị trường.

• 22:00 16/05/2025

Tôm bị mủ gan: Có hay không?

Trong ngành nuôi tôm, cụm từ mủ gan thường được nhắc đến khi tôm có dấu hiệu bất thường. Nhưng liệu mủ gan có thực sự là một bệnh lý riêng biệt, hay chỉ là triệu chứng của các vấn đề khác? Hiểu rõ hiện tượng này không chỉ giúp bà con nuôi tôm phát hiện sớm mà còn tìm ra cách xử lý hiệu quả, đảm bảo vụ mùa năng suất. Bài viết này sẽ làm sáng tỏ thực hư về mủ gan, từ nguyên nhân, dấu hiệu đến giải pháp xử lý.

Tôm bị bệnh
• 22:00 16/05/2025

EDTA có thể thay đổi cả vụ mùa của bạn như thế nào?

EDTA (Ethylenediaminetetraacetic acid) là một hợp chất hữu cơ có khả năng tạo phức với nhiều loại ion kim loại thông qua quá trình chelation (tạo phức chất), giúp ổn định các kim loại trong dung dịch. Với đặc tính này, EDTA đã trở thành một trong những chất phụ trợ được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành công nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.

Bột edta
• 22:00 16/05/2025

Đừng bỏ qua những lưu ý này khi sử dụng Iodine trong thủy sản

Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, Iodine – hay còn gọi là I-ốt – được xem là một vi chất quan trọng, không chỉ với con người mà còn đóng vai trò thiết yếu trong việc cải thiện môi trường và sức khỏe vật nuôi dưới nước. Tuy nhiên, việc sử dụng Iodine cần được thực hiện đúng cách để phát huy tối đa hiệu quả sát trùng mà không gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái ao nuôi.

Cá nuôi
• 22:00 16/05/2025

Blockchain trong truy xuất nguồn gốc trong thủy sản

Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản đang ngày càng chịu áp lực bởi yêu cầu minh bạch, đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm, công nghệ blockchain đang nổi lên như một công cụ đột phá giúp giải quyết nhiều thách thức cốt lõi của ngành. Với khả năng ghi nhận, lưu trữ và xác thực thông tin một cách minh bạch, không thể chỉnh sửa, blockchain đang mở ra hướng đi mới cho việc quản lý chuỗi cung ứng thủy sản từ ao nuôi đến bàn ăn.

Truy xuất nguồn gốc
• 22:00 16/05/2025
Some text some message..