Những điểm sáng
Ông Trần Công Thành nuôi tôm thẻ chân trắng trong 24 ao lót bạt có tổng diện tích hơn 10ha tại thôn 6 (xã Tam Hòa, Núi Thành). Vụ này ông thu được hơn 70 tấn tôm. Vì nuôi thâm canh theo hướng công nghiệp, tôm nuôi đạt kích cỡ lớn khi thu hoạch (40 - 80 con/kg) nên ông bán được giá cao (100 - 150 nghìn đồng/kg). Với 70 tấn tôm, sau khi trừ chi phí, ông Thành thu được khoảng 400 triệu đồng. Ngay trong khi thu hoạch, mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng của gia đình ông là điểm tham quan, học hỏi kinh nghiệm của các tổ chức và người nuôi tôm trong và ngoài tỉnh. Ông Thành cho biết: “Vấn đề cốt lõi nhất trong nuôi tôm nước lợ là làm sao đảm bảo cho tôm nuôi sinh trưởng tốt nhất, không xảy ra dịch bệnh. Ngoài chuyện thả con giống chất lượng thì cần phải tránh tác động xấu của thời tiết và đảm bảo nguồn nước chất lượng. Chúng tôi lấy nước trực tiếp từ biển, bão hòa độ mặn bằng nguồn nước tự đóng…”.
Tại vùng triều ven sông, gia đình ông Nguyễn Tiến (thôn Long Bình, Tam Nghĩa, Núi Thành) đầu tư lót bạt nuôi tôm thẻ chân trắng trên 1,2ha. Ông Tiến đã xây thêm 2 ao chứa lắng với diện tích 1ha để điều hòa nguồn nước được lấy từ vùng triều. Với 3 ao nuôi 4.000m2, vụ này ông thả 700 nghìn con giống chất lượng cao từ Công ty Giống CP. Ngoài ao chứa lắng, ông cũng đầu tư thêm lưới bao bọc phía trên 3 ao nuôi để hạn chế các yếu tố tác động từ bên ngoài. Nhờ tôm nuôi phát triển tốt, gia đình ông thu hoạch được 10 tấn, doanh thu 1,3 tỷ đồng, lãi khoảng 500 triệu đồng.
Tại huyện Thăng Bình, ở vụ nuôi này gia đình ông Nguyễn Văn Thọ (thôn Phước An 1, xã Bình Hải) đầu tư nuôi 24 ao tôm thẻ chân trắng trên 48.000m2. Vụ này, ông thu hoạch được 2,5 tấn trên mỗi ao nuôi, tổng doanh thu đạt gần 6 tỷ đồng. “Nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát đem lại lợi nhuận rất cao. Sau khi khấu hao chi phí và chi trả nhân công, gia đình chúng tôi đã thu được lợi nhuận hơn 600 triệu đồng chỉ trong 1 vụ nuôi. Diện tích thả nuôi càng lớn thì càng tiết kiệm được chi phí, bởi vậy nếu không có gì bất trắc, gia đình chúng tôi sẽ mở rộng diện tích thả nuôi trong thời gian tới” - ông Thọ cho biết.
Chưa hiệu quả
Bên cạnh thành công của một vài hộ nuôi, ở vụ 2 năm nay dịch bệnh trên tôm nuôi vẫn xảy ra gây nhiều thiệt hại cho người dân. Nếu như diện tích thả nuôi tôm thẻ chân trắng ở vụ 1 là 1.300ha (1.000ha ở vùng triều, 300ha trên cát) thì ở vụ 2, diện tích thả nuôi tăng lên 1.500ha (1.200ha ở vùng triều, 300ha trên cát). Trong khi đó, ngược lại, sản lượng thu hoạch ở vụ 1 đạt 4.300 tấn (3.000 tấn ở vùng triều, 1.300 tấn nuôi trên cát) thì sản lượng thu hoạch ở vụ 2 sụt giảm xuống còn 3.400 tấn (1.500 tấn ở vùng triều và 1.900 tấn nuôi trên cát). Sự sụt giảm về sản lượng thu hoạch của vụ 2 so với vụ 1 đã kéo theo năng suất thấp đáng kể so với vụ 1 (2,3 tấn/ha ở vụ 2 và 3,3 tấn/ha của vụ 1).
Theo Chi cục Nuôi trồng thủy sản Quảng Nam, thời gian qua đơn vị đã triển khai nhiều biện pháp phòng, chống bệnh trên tôm nuôi, quản lý môi trường nước trong ao nuôi tôm. Tuy nhiên, công tác chỉ đạo sản xuất trong thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn. Người dân vẫn chưa nghiêm túc chấp hành lịch thời vụ và kiểm dịch con giống. “Thời gian qua, việc phát hiện và xử lý các trường hợp tôm nuôi bị các bệnh nguy hiểm chưa được kịp thời. Khi tôm nuôi có dấu hiệu nhiễm bệnh, chi cục đến vùng nuôi lấy mẫu, phân tích và trả lời kết quả nhanh chóng. Tuy nhiên, khi phát hiện tôm nuôi bị bệnh đốm trắng, đơn vị chỉ dừng lại ở mức kiểm tra, thông báo kết quả, hướng dẫn người nuôi và địa phương thực hiện biện pháp xử lý và khống chế bao vây. Do vi rút đốm trắng phát tán nhanh trong điều kiện ao nuôi sơ sài mà nguồn hóa chất dự phòng lại không có sẵn nên việc lây lan nhanh mầm bệnh là điều khó tránh khỏi” - ông Ngô Tấn, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT kiêm Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản Quảng Nam nói.
Bà Phạm Thị Hoàng Tâm, Phó chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản Quảng Nam cho biết, vấn đề quản lý chất lượng con giống trên địa bàn tỉnh hiện chưa được toàn diện nên con giống kém chất lượng vẫn tràn lan. Nguyên nhân của hạn chế này là do người nuôi vẫn còn mang tâm lý sợ sệt, trốn tránh, không hợp tác với cơ quan quản lý để kiểm tra chất lượng con giống. Bà Tâm kiến nghị: “Để đảm bảo hiệu quả trong nuôi tôm nước lợ nói riêng, trong nuôi trồng thủy sản nói chung, thời gian tới Quảng Nam cần quan tâm bố trí nguồn hóa chất clorin A dự phòng (ngay từ cuối năm) để đơn vị có thể chủ động giúp nông dân phòng, chống dịch bệnh khi bước vào sản xuất vụ đầu năm đến. Việc tổ chức các lớp tập huấn về phòng, chống dịch bệnh trên tôm nuôi cho cán bộ thủy sản địa phương cũng rất cần thiết”.