Sáng kiến ở Kiên Giang

Người nuôi tôm tại Kiên Giang đang có những cải tiến quy trình nuôi để thích ứng với tình hình thời tiết nắng hạn kéo dài, độ mặn tăng cao.

che lưới ao tôm
Nhiều hộ nuôi tôm đã đầu tư thêm hệ thống lưới che nhằm hạn chế ánh nắng chiếu thẳng xuống ao nuôi

Cải tiến quy trình nuôi

Kiên Giang có vùng biển rộng 63.290 km2, với bờ biển dài hơn 200 km, là điều kiện tốt để phát triển ngành thủy sản đa dạng, nhất là nuôi tôm nước lợ. Kế hoạch năm 2016 Kiên Giang phát triển nuôi tôm diện tích 102.735 ha, sản lượng 57.000 tấn. Trong đó, nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp diện tích 2.700 ha, nuôi tôm lúa diện tích 78.410 ha, còn lại là nuôi quảng canh cải tiến.

Nuôi tôm công nghiệp của tỉnh Kiên Giang chủ yếu tập trung tại các huyện thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên như: Kiên Lương, Giang Thành, Hòn Đất và TX Hà Tiên. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư nuôi tôm tại đây với diện tích lên đến hàng trăm hecta. Các hộ nuôi nhỏ lẻ cũng ngày càng mở rộng diện tích thả nuôi.

Anh Nguyễn Văn Công, đang đầu tư thả nuôi 4 ha tôm công nghiệp tại huyện Kiên Lương cho biết, nắng hạn kéo dài khiến nhiệt độ giữa ngày và đêm chênh lệch rất lớn, tôm nuôi dễ bị sốc môi trường. “Để khắc phục tình trạng này, tôi cũng như nhiều hộ nuôi tại đây đã đầu tư thêm hệ thống lưới che (lưới trồng lan) nhằm hạn chế ánh nắng chiếu thẳng xuống ao nuôi, làm giảm sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm. Phương pháp này khá hiệu quả, tôm nuôi ít bị thiệt hại hơn”, anh Công chia sẻ.

Ông Quảng Trọng Thao, Phó GĐ Sở NN-PTNT Kiên Giang cho biết, quy trình nuôi tôm có mái che bằng lưới lan đang được nhiều người nuôi tôm trên địa bàn tỉnh áp dụng. Ngoài tác dụng che nắng, mái che còn giúp giảm tình trạng bốc hơi nước, làm cho độ mặn trong ao nuôi không bị tăng lên quá cao. Tôm nuôi nước lợ thích hợp phát triển với độ mặn trong ao nuôi từ 15-25%o, còn khi độ mặn trên 30%o tôm nuôi sẽ chậm lớn, dễ bị dịch bệnh. Vì vậy, khi độ mặn cao, ngành nông nghiệp khuyến cáo người nuôi nên thận trọng, không tiếp tục thả giống.

Tại vùng nuôi tôm - lúa, quảng canh cải tiến thuộc các huyện vùng U Minh Thượng, nông dân cũng có nhiều sáng kiến, cải tiến quy trình nuôi. Những năm qua, nông dân huyện Vĩnh Thuận đã thực hiện mô hình nuôi ghép tôm sú với tôm càng xanh, tôm sú với thẻ chân trắng. Mô hình này đang được nhân rộng ở các huyện lân cận.

Lão nông Huỳnh Văn Lĩnh, ở xã Vĩnh Bình Nam, huyện Vĩnh Thuận phấn khởi: “Gia đình vừa thu hoạch xong 2 ha tôm càng xanh, trúng mùa, trúng giá nên lãi được gần 100 triệu đồng”. Theo ông Lĩnh, nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng chỉ khoảng 3 tháng là thu hoạch, còn tôm càng xanh trên dưới 5 tháng nên nông dân lấy ngắn nuôi dài. Khi thu hoạch dứt điểm tôm sú, tôm thẻ chân trắng thì tập trung chăm sóc tôm càng xanh. Hết vụ thu hoạch tôm chuyển sang sản xuất vụ lúa để cải tạo môi trường đồng ruộng và tiếp tục thả giống tôm nuôi.

Để đảm bảo ăn chắc, tôm càng xanh được “vèo nuôi” trong môi trường nước lợ vài ba ngày cho chúng quen dần với nồng độ mặn trước khi thả ra ruộng nuôi, giúp tôm thích hợp với môi trường nước lợ nên không bị sốc, giảm tỷ lệ hao hụt.

Tại các xã ven biển thuộc huyện An Biên và An Minh, hiện có trên 10.000 ha sản xuất theo mô hình tôm - lúa, nhưng do đất bị nhiễm mặn, cây lúa không thể phát triển được. Để thay cho vụ lúa nhằm mục đích cải tạo môi trường sau mỗi vụ nuôi tôm, người dân đã có sáng kiến trồng một số loại cỏ nước mặn như lông công, đuôi phụng, năn tượng…

Hộ anh Nguyễn Tri Phương, ở xã Thuận Hòa, huyện An Minh, đã trồng cỏ nuôi tôm mấy năm nay cho biết, mô hình tôm - lúa mà mặn quá không thể trồng lúa được, nuôi tôm cũng gặp khó khăn, do môi trường không được làm sạch. Vì vậy, tôi phải tìm cỏ đuôi phụng về trồng để thay thế. Loài cỏ này chịu mặn rất tốt và cũng có chức năng cải tạo môi trường giống như lúa nhờ vậy mà vụ tôm tiếp theo thả nuôi khá thuận lợi. Kết quả cho thấy, khi môi trường được cải thiện, tôm nuôi ít xảy ra dịch bệnh và mau lớn hơn.

Ông Quảng Trọng Thao cho biết, tại huyện An Minh hiện có khoảng 7.000 ha không thể trồng lúa, An Biên khoảng 4.000 ha vì đất đã bị nhiễm mặn. Vào những tháng mùa mưa, nông dân có thể trồng bồn bồn hoặc một số loại cỏ nước mặn để thay thế vụ lúa nhằm cải tạo lại môi trường.

Quy hoạch lại vùng nuôi

Xâm nhập mặn đang đặt ra những thách thức mới đối với sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phương, nhất là vùng ven biển. Việc quy hoạch lại vùng nuôi, chọn đối tượng nuôi sao cho phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế bền vững đang được các địa phương tính đến.

Ông Ngô Trấn Hỷ, Trưởng phòng NN-PTNT An Biên cho biết, toàn huyện có trên 15.000 ha nuôi trồng thủy sản, trong đó mô hình tôm - lúa là 13.700 ha. Tuy nhiên, do tình hình xâm nhập mặn nên nhiều diện tích gần biển không thể cấy lấp lại vụ lúa được nữa. Dự kiến, huyện sẽ chuyển khoảng 3.835 ha thuộc các xã Nam Yên, Tây Yên, Nam Thái và Nam Thái A từ mô hình lúa - tôm sang chuyên nuôi trồng thủy sản, để thích ứng với tình hình hiện nay.


Trồng cỏ thay thế vụ lúa nhằm cải tạo môi trường nuôi tôm ở những vùng bị nhiễm mặn

“Chúng tôi đang khảo sát để quy hoạch phân vùng nuôi cụ thể gồm: vùng tôm - lúa ăn chắc, đất chưa bị nhiễm mặn nặng, vùng chuyên nuôi trồng thủy sản và vùng linh hoạt. Song song với đó là chọn đối tượng nuôi và xây dựng khung thời vụ nuôi phù hợp, có thể xuống giống sớm hơn để tránh tình trạng độ mặn quá cao không thể thả nuôi”, ông Hỷ cho biết thêm.

Trong kế hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp, tỉnh Kiên Giang quy hoạch chuyển đổi khoảng 20.000 ha ven biển thuộc huyện Hòn Đất từ độc canh cây lúa sang luân canh tôm - lúa, nhằm nâng cao thu nhập cho người dân trong bối cảnh sản xuất lúa bấp bênh do nước mặn xâm nhập. Thực tế mấy năm gần đây đã có hàng ngàn ha lúa tại khu vực này bị chết do nhiễm mặn.

Giám đốc Sở NN-PTNT Kiên Giang Nguyễn Văn Tâm cho biết, chuyển đổi để giảm bớt rủi ro. Hơn nữa, chuyển sang mô hình tôm - lúa sẽ cho hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với độc canh cấy lúa. Thực tế khi chưa có mô hình này, nhiều diện tích ven biển chỉ có thể trồng lúa 1 vụ/năm với năng suất thấp 2-3 tấn/ha, đời sống rất khó khăn. Nhưng sau gần 15 năm chuyển đổi, năng suất tôm đạt khoảng 280 kg/ha và lúa đạt 4-5 tấn/ha.

Không chỉ vậy, mà còn xuất hiện thêm những cách làm sáng tạo như nuôi ghép tôm sú, cua biển, lúa; tôm sú, tôm càng xanh, lúa… mang lại thu nhập khoảng 150 triệu đồng/ha, cao gấp nhiều lần so với chuyên trồng lúa.

Nông Nghiệp Việt Nam, 30/03/2016
Đăng ngày 30/03/2016
Đ.T.Chánh
Nuôi trồng

Các giải pháp nuôi tôm thương phẩm ứng dụng theo công nghệ Semi-Biofloc

Công nghệ Semi-Biofloc trong nuôi tôm là một phương pháp hiệu quả, giúp nâng cao năng suất và hiệu quả bền vững cho ngành nuôi trồng thủy sản. Sau đây là một số ưu điểm của công nghệ Semi-Biofloc trong nuôi tôm thương phẩm:

Tôm thẻ
• 11:27 05/11/2024

Sự căng thẳng ở tôm

Căng thẳng ở tôm là một vấn đề quan trọng mà bà con nuôi tôm cần nắm vững để bảo vệ sức khỏe và nâng cao năng suất của đàn tôm. Khi bị căng thẳng, tôm sẽ yếu dần, dễ mắc bệnh và khó phát triển như mong muốn.

Tôm thẻ
• 10:11 05/11/2024

Thách thức dinh dưỡng trong nuôi tôm

Một trong những thách thức lớn nhất mà người nuôi tôm phải đối mặt là vấn đề dinh dưỡng. Dinh dưỡng không chỉ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm mà còn quyết định đến sức khỏe, khả năng chống chịu bệnh tật và hiệu quả sản xuất. Việc đảm bảo cung cấp đủ chất dinh dưỡng và cân đối trong suốt quá trình nuôi đòi hỏi sự am hiểu sâu rộng và sự quản lý khéo léo.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:54 04/11/2024

Oxy viên hỗ trợ ao nuôi tôm như thế nào?

Oxy viên là một sản phẩm được sử dụng khá phổ biến trong nuôi tôm, đặc biệt trong các hệ thống ao nuôi thâm canh và bán thâm canh. Sản phẩm này có vai trò cung cấp oxy trực tiếp vào nước ao nuôi, giúp tăng cường khả năng hô hấp của tôm và duy trì điều kiện môi trường thuận lợi cho quá trình sinh trưởng của chúng.

Tôm thẻ
• 10:44 04/11/2024

Các giải pháp nuôi tôm thương phẩm ứng dụng theo công nghệ Semi-Biofloc

Công nghệ Semi-Biofloc trong nuôi tôm là một phương pháp hiệu quả, giúp nâng cao năng suất và hiệu quả bền vững cho ngành nuôi trồng thủy sản. Sau đây là một số ưu điểm của công nghệ Semi-Biofloc trong nuôi tôm thương phẩm:

Tôm thẻ
• 02:50 06/11/2024

Điều chỉnh lượng và kích thước thức ăn cho tôm qua từng giai đoạn

Quản lý thức ăn là một yếu tố quan trọng giúp người nuôi tối ưu hóa quá trình nuôi tôm và giảm thiểu lãng phí, từ đó mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ rằng lượng và kích thước thức ăn cần được điều chỉnh qua từng giai đoạn phát triển của tôm.

Tôm thẻ chân trắng
• 02:50 06/11/2024

Sự căng thẳng ở tôm

Căng thẳng ở tôm là một vấn đề quan trọng mà bà con nuôi tôm cần nắm vững để bảo vệ sức khỏe và nâng cao năng suất của đàn tôm. Khi bị căng thẳng, tôm sẽ yếu dần, dễ mắc bệnh và khó phát triển như mong muốn.

Tôm thẻ
• 02:50 06/11/2024

Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến năng suất nuôi thủy sản tại vùng ven biển Việt Nam

Biến đổi khí hậu đang ngày càng ảnh hưởng mạnh đến ngành nuôi trồng thủy sản ven biển Việt Nam, gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lớn, hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn và nhiệt độ nước biển tăng cao trong năm 2023-2024. Những tác động này không chỉ làm suy giảm năng suất và sản lượng thủy sản, mà còn đe dọa sinh kế và an ninh kinh tế của người dân ven biển.

Nuôi trồng thủy sản
• 02:50 06/11/2024

Các loài không mong muốn xuất hiện trong ao nuôi ngày mưa

Những sinh vật này bao gồm các loại cá tạp, côn trùng, giáp xác không mong muốn và vi sinh vật có hại. Việc hiểu rõ những loài không mong muốn này cùng với tác hại và biện pháp kiểm soát sẽ giúp bà con nông dân duy trì môi trường nuôi tôm ổn định và hiệu quả.

Sinh vật phù du
• 02:50 06/11/2024
Some text some message..