Tiềm năng phát triển nghề nuôi lươn ở Tiền Giang

Nghề nuôi lươn không bùn sử dụng giống nhân tạo và thức ăn viên là cách nuôi mới hiện nay đã mang lại giá trị kinh tế cao cho nông dân, phù hợp với các hộ dân có diện tích nhỏ xung quanh nhà, khu đô thị và tận dụng thời gian nhàn rỗi, kiểm soát được bệnh, hạn chế rủi ro trong quá trình nuôi, giúp hạ giá thành cho sản phẩm. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ lươn ngày càng mở rộng cả trong nước và xuất khẩu nên nghề nuôi lươn rất có tiềm năng.

Tiềm năng phát triển nghề nuôi lươn ở Tiền Giang
Lươn thương phẩm. Ảnh: Internet

Việc nuôi lươn trước đây thường xuyên gặp khó khăn trong phát triển mô hình do con giống tự nhiên ngày càng cạn kiệt và không đảm bảo chất lượng; nuôi trên nền đáy bùn khó quản lý làm lươn dễ bị bệnh, tỉ lệ sống thấp, chi phí sản xuất cao. Trong quá trình nuôi lươn thương phẩm sử dụng thức ăn tươi sống (thường là cá tạp) không chủ động được và không đảm bảo yêu cầu chất lượng khiến lươn dễ bị lây nhiễm bệnh từ nguồn thức ăn tươi sống, môi trường nước nuôi dễ bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến hiệu quả mô hình.

Trước tình hình đó, Trung tâm Khuyến nông đã xây dựng các mô hình sản xuất lươn giống bán nhân tạo, nuôi lươn không bùn từ giống nhân tạo bằng thức ăn viên, tổ chức lớp dạy nghề tại mô hình, bước đầu đã mang lại hiệu quả khả quan.

Thành công đầu tiên đó là mô hình sản xuất lươn giống bán nhân tạo đã giúp người nuôi lươn chủ động được nguồn giống chất lượng trong quá trình nuôi, con giống nhân tạo rất khỏe mạnh, kích cỡ đồng đều, sạch bệnh, sử dụng được thức ăn viên, ít hao hụt khi nuôi, đáp ứng yêu cầu về chất lượng và một phần số lượng theo nhu cầu của người nuôi.

Nguồn lươn giống trên được cung cấp cho các hộ nuôi lươn không bùn bằng thức ăn viên đã giúp tỉ lệ sống của lươn nuôi được nâng lên và ổn định trong quá trình nuôi; sử dụng thức ăn viên giúp chủ động được nguồn thức ăn, tránh hủy diệt cá tự nhiên, hạ giá thành sản phẩm, môi trường nước tốt, ít bệnh; bạt nuôi không bùn giúp dễ chăm sóc quản lý và lươn ít bệnh.

Ngoài ra, tại các mô hình trình diễn đã tổ chức lớp dạy nghề nuôi lươn, giúp người dân nắm bắt và thực hành quy trình đạt kết quả tốt, qua đó được nhiều người dân đồng tình ủng hộ; đồng thời đã tổ chức cho nông dân các huyện, thị, thành đến tham quan, chia sẻ kinh nghiệm tại các mô hình. Từ hiệu quả của mô hình, hiện nay, nông dân nhiều nơi trong tỉnh đều nuôi lươn theo kiểu mới này, tuy số hộ nuôi chưa nhiều nhưng bước đầu đã mang lại hiệu quả khả quan.

Cụ thể, mô hình nuôi lươn này không cần diện tích đất nhiều, với mật độ nuôi thịt 150 con/m2 thì hai bạt có diện tích 30m2 nuôi được khoảng 5.000 con lươn, giống đã được thuần bằng thức ăn viên nên chủ động được thức ăn và cần một ao xử lý nước khoảng vài trăm mét vuông là đủ (có thể sử dụng nước sông, nước giếng khoan hoặc nước máy bơm lên hồ rồi cấp qua bạt nuôi lươn), cần đo oxy trước khi cấp nước qua bạt nuôi lươn. Trong quá trình nuôi định kỳ sử dụng chế phẩm sinh học xử lý nước và trộn vô thức ăn cho lươn. Sau 9 tháng nuôi, lươn thịt cho thu hoạch với lợi nhuận trung bình 50 triệu đồng/10.000 con hoặc mô hình sản xuất lươn giống sau 6 tháng thực hiện lợi nhuận trên 30 triệu đồng/50kg lươn bố mẹ (khoảng 120 cặp lươn bố mẹ).

Qua các mô hình đã giúp nâng cao trình độ sản xuất của người dân, nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, tiêu biểu là sản xuất được giống nhân tạo đã nâng cao tỉ lệ sống khi nuôi; nuôi trên bạt không bùn giúp giảm bệnh, dễ chăm sóc quản lý; tạo thói quen sử dụng chế phẩm sinh học; sử dụng thức ăn viên trong quá trình ương nuôi lươn đã tạo điều kiện cho người nuôi chủ động được nguồn thức ăn, giảm đánh bắt cá tạp làm thức ăn cho lươn, góp phần hạn chế bệnh, giảm ô nhiễm môi trường và giảm hệ số thức ăn.

Mô hình đã giúp tận dụng thời gian nhàn rỗi cho nông dân, tạo việc làm cho nông dân, nhờ vậy góp phần giảm giá thành, tạo ra sản phẩm an toàn đảm bảo sức khỏe cho người sản xuất, người tiêu dùng và bảo vệ môi trường. Đây được xem là mô hình phù hợp nơi đô thị ít đất sản xuất, tận dụng lao động sẵn có tại nông hộ, giúp nông dân tăng thu nhập trên cùng một đơn vị diện tích đất.

Báo Tiền Giang
Đăng ngày 02/07/2018
Nguyễn Thị Phương Dung
Nuôi trồng

FLOCponics: Sự tích hợp hoàn hảo của công nghệ biofloc và cây thủy canh

FLOCponics là một loại Aquaponics thay thế tích hợp công nghệ biofloc (BFT) với sản xuất cây trồng không sử dụng đất.

flocponics
• 15:51 07/03/2022

Mô hình nuôi ba ba lãi 300 triệu đồng/năm

Mô hình nuôi ba ba của ông Lương Thành Kỷ, ở thị trấn Búng Tàu, huyện Phụng Hiệp. Qua 14 năm phát triển, đến nay đàn ba ba sinh sản của ông Kỷ đã phát triển hơn 1.500 con, mỗi năm xuất bán ra thị trường từ 8.000-10.000 con giống, trừ hết các khoản chi phí, lợi nhuận gần 300 triệu đồng/năm.

Ba ba.
• 09:38 14/06/2021

Kinh tế ổn định nhờ nuôi ba ba sinh sản

Hơn 20 năm nuôi ba ba sinh sản, anh Nguyễn Đức Lợi, ấp Phước Thọ B, xã Mỹ Phước, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng có cuộc sống khấm khá. Gắn bó lâu năm với con ba ba một phần cũng vì sự yêu thích loài vật này, ba ba lại dễ nuôi, nhẹ công chăm sóc, thị trường tiêu thụ tốt, đem lại nguồn thu nhập ổn định cho gia đình anh.

• 15:40 03/03/2021

Thu trăm triệu đồng mỗi năm từ nuôi ba ba

Nuôi ba ba gai là một công việc đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn và kỹ thuật cao. Nhưng bằng ý chí, nghị lực, sự đam mê tận tụy với công việc cùng với áp dụng các kiến thức khoa học kỹ thuật mà ông Phạm Tất Đạt ở xã Yên Bình, thành phố Tam Điệp đã thành công, vươn lên trở thành triệu phú.

kỹ thuật sản xuất giống baba
• 10:00 30/05/2017

Tôm bị mủ gan: Có hay không?

Trong ngành nuôi tôm, cụm từ mủ gan thường được nhắc đến khi tôm có dấu hiệu bất thường. Nhưng liệu mủ gan có thực sự là một bệnh lý riêng biệt, hay chỉ là triệu chứng của các vấn đề khác? Hiểu rõ hiện tượng này không chỉ giúp bà con nuôi tôm phát hiện sớm mà còn tìm ra cách xử lý hiệu quả, đảm bảo vụ mùa năng suất. Bài viết này sẽ làm sáng tỏ thực hư về mủ gan, từ nguyên nhân, dấu hiệu đến giải pháp xử lý.

Tôm bị bệnh
• 09:00 16/05/2025

Cách lắng phù sa cho ao nuôi

Trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi cá, tôm, việc xử lý nước đầu vào là một khâu quan trọng nhằm đảm bảo môi trường ao nuôi ổn định, an toàn cho sinh vật nuôi. Trong đó, phù sa – thành phần tự nhiên thường có trong nước lấy từ sông, kênh rạch – nếu không được xử lý thích hợp, có thể gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước ao, làm giảm hiệu suất nuôi và tăng rủi ro dịch bệnh. Một trong những phương pháp xử lý phổ biến là “lắng phù sa”.

Ao nuôi
• 11:00 14/05/2025

Cảnh giác dịch bệnh khi giao mùa

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt, ngành nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là nguy cơ bùng phát dịch bệnh trong thời điểm giao mùa. Giao mùa là khoảng thời gian chuyển tiếp giữa các mùa trong năm, thường đi kèm với sự biến động lớn về nhiệt độ, độ ẩm, mưa nắng, và môi trường nước. Những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của vật nuôi thủy sản. Nếu không có biện pháp phòng ngừa và xử lý kịp thời, dịch bệnh có thể bùng phát nhanh chóng, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế và ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm, môi trường sinh thái.

Tôm thẻ chân trắng
• 09:00 14/05/2025

Nuôi lươn: Hướng tới chuỗi liên kết bền vững

Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và nhu cầu chuyển đổi sang mô hình sản xuất bền vững, ngành nuôi trồng thủy sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và tạo sinh kế cho hàng triệu người dân. Trong số đó, nghề nuôi lươn đang dần trở thành hướng đi tiềm năng, không chỉ về hiệu quả kinh tế mà còn phù hợp với xu thế phát triển chuỗi giá trị bền vững, nhất là tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

Nuôi lươn
• 09:00 14/05/2025

Cách lắng phù sa cho ao nuôi

Trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi cá, tôm, việc xử lý nước đầu vào là một khâu quan trọng nhằm đảm bảo môi trường ao nuôi ổn định, an toàn cho sinh vật nuôi. Trong đó, phù sa – thành phần tự nhiên thường có trong nước lấy từ sông, kênh rạch – nếu không được xử lý thích hợp, có thể gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước ao, làm giảm hiệu suất nuôi và tăng rủi ro dịch bệnh. Một trong những phương pháp xử lý phổ biến là “lắng phù sa”.

Ao nuôi
• 16:21 14/05/2025

Cảnh giác dịch bệnh khi giao mùa

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt, ngành nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là nguy cơ bùng phát dịch bệnh trong thời điểm giao mùa. Giao mùa là khoảng thời gian chuyển tiếp giữa các mùa trong năm, thường đi kèm với sự biến động lớn về nhiệt độ, độ ẩm, mưa nắng, và môi trường nước. Những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của vật nuôi thủy sản. Nếu không có biện pháp phòng ngừa và xử lý kịp thời, dịch bệnh có thể bùng phát nhanh chóng, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế và ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm, môi trường sinh thái.

Tôm thẻ chân trắng
• 16:21 14/05/2025

Nuôi lươn: Hướng tới chuỗi liên kết bền vững

Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và nhu cầu chuyển đổi sang mô hình sản xuất bền vững, ngành nuôi trồng thủy sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và tạo sinh kế cho hàng triệu người dân. Trong số đó, nghề nuôi lươn đang dần trở thành hướng đi tiềm năng, không chỉ về hiệu quả kinh tế mà còn phù hợp với xu thế phát triển chuỗi giá trị bền vững, nhất là tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

Nuôi lươn
• 16:21 14/05/2025

Một số ứng dụng công nghệ trong quản lý và giám sát hoạt động khai thác thủy sản

sản Việc ứng dụng công nghệ trong quản lý và giám sát hoạt động khai thác thủy sản là một xu hướng quan trọng giúp đảm bảo khai thác bền vững, bảo vệ nguồn lợi thủy sản và tuân thủ các quy định quốc tế. Dưới đây là một số công nghệ tiêu biểu đang được triển khai.

Công nghệ trong khai thác thủy sản
• 16:21 14/05/2025

Ngành thủy sản Việt Nam đã và đang “xanh hóa”: Từ xu hướng đến chiến lược quốc gia

Trong nhiều thập kỷ qua, thủy sản đã đóng vai trò trụ cột trong nền kinh tế Việt Nam, góp phần quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm và sinh kế cho hàng triệu người dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, ngành này cũng đang đối mặt với không ít thách thức mang tính sống còn: suy giảm nguồn lợi, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, yêu cầu khắt khe từ thị trường quốc tế… Trong bối cảnh đó, “xanh hóa” không còn là lựa chọn, mà đã trở thành chiến lược phát triển tất yếu nếu Việt Nam muốn duy trì vị thế và phát triển bền vững ngành thủy sản.

Nuôi trồng thủy sản
• 16:21 14/05/2025
Some text some message..