Nghề nuôi cá sấu trên thế giới bắt đầu vào những năm 1950 để đối phó với sự suy giảm trên diện rộng các quần thể động vật hoang dã. Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) được thành lập vào giữa những năm 1970, nghề nuôi cá sấu dần trở nên phố biến và ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm.
Tháng 1 năm 1994 Việt Nam là thành viên chính thức của công ước CITES. Điều này giúp cá sấu Việt Nam dễ dàng xuất khẩu đến các nước trên thế giới. Nghề nuôi cá sấu ở nước ta có tiềm năng phát triển tốt vì khí hậu ấm áp phù hợp cho cá sấu sinh trưởng, có sẵn nguồn giống và nguồn thức ăn. Bên cạnh đó, kĩ thuật chăm sóc quản lí cũng ngày càng được nâng cao.
Cá sấu là loài khá dễ nuôi, chỉ cần giữ ấm cho chúng, vệ sinh chuồng trại và cho ăn uống đầy đủ. Chuồng nuôi nhất thiết phải có nước cho cá sấu đầm mình, vì vậy phải thiết kế các ao hoặc bể xây phù hợp và việc thay nước thường xuyên là rất cần thiết. Nước bẩn làm ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng da của cá. Các biểu hiện hành vi và lượng thức ăn tiêu thụ nên được theo dõi hàng ngày để nắm bắt được tình trạng sức khỏe và canh chỉnh được lượng thức ăn phù hợp.
Nếu các hộ nuôi nhỏ lẻ thường sử dụng động vật sống và cá có giá thành thấp để làm thức ăn chính, thì ở một số trang trại lớn lại sử dụng thức ăn viên. Hầu hết cá sấu con mới nở sẽ sử dụng hết lượng noãn hoàng dự trữ trong vòng vài ngày, đó là khoảng thời gian thích hợp để tập dần cho cá quen với việc sử dụng thức ăn viên. Thức ăn và chế độ ăn có ảnh hưởng đến chất lượng nước trong chuồng cũng như chất lượng da của cá. Khẩu phần ăn giàu protein sẽ dẫn đến mức amoniac cao.
Cá con có thể được cho ăn thức ăn viên trong vòng vài ngày sau khi nở. Ảnh International Crocodilian Farmers Association
Một nghiên cứu về cá sấu Mỹ tại Đại học Bang Louisiana cho thấy, sau 180 ngày nuôi, trọng lượng trung bình của con non ở nghiệm thức cho ăn 45% protein không khác biệt đáng kể so với nghiệm thức cho ăn 55% protein. Nhưng nồng độ amoniac của nghiệm thức cho ăn 55% protein lại cao hơn rất nhiều, nồng độ amoniac cao làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng hô hấp của cá. Do đó, người nuôi cá sấu nên chuyển sang chế độ ăn 45% protein sau vài tháng tăng trưởng đầu tiên để tránh tăng chi phí thức ăn không cần thiết.
Mặc dù cá sấu là loài cần chế độ ăn giàu protein, nhưng nếu thức ăn quá nhiều protein thì lượng protein dư không được cơ thể hấp thu để tổng hợp protein mới mà được chuyển hóa thành năng lượng hoặc thải ra ngoài. Thêm vào đó quá trình tiêu hóa lượng protein dư thưa này còn gây hao tổn năng lượng của cá, dẫn đến tốc độ tăng trưởng giảm. Điều này vừa làm lãng phí protein, vừa tăng giá thành thức ăn không cần thiết. Một nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi lớn ở Zambia khuyến nghị chế độ ăn phù hợp cho cá sấu ăn như sau:
Age in months: Tháng tuổi; %Protein Diet: Protein trong khẩu phần ăn. Biểu đồ: Prof C Greg Lutz
Mật độ nuôi quá cao làm giảm tốc độ tăng trưởng hoặc tình trạng sức khỏe của cá, cũng như làm tăng tính hung hăng của một số con, dẫn đến chất lượng da thấp do sẹo hay vết cắn để lại. Vì vậy mật độ trong quá trình nuôi không nên quá cao. Một điểm quan trọng cần phải lưu ý, khi số đông cá thể tập trung trong một khu vực nhất định, chúng sẽ có xu hướng chồng lên nhau khi sợ hãi, khiến cho những con ở dưới bị đè, thậm chí đôi khi chết vì ngạt thở.
Tương tự như nghề nuôi thủy sản và chăn nuôi gia súc, dịch bệnh luôn là một vấn đề nan giải và có thể dẫn đến thiệt hại thảm khốc cho nghề nuôi cá sấu. Virus thủy đậu (Crocodilepox virus) đã được tìm thấy ở cá sấu nước mặn, gây thiệt hại kinh tế đáng kể. Virus này gây ra các tổn thương trên da, làm giảm giá trị của da và kéo dài thời gian sản xuất. Các tổn thương do Poxvirus cũng đã được báo cáo ở nhiều loài cá sấu khác. Nếu người nuôi trì hoãn việc thu hoạch với hy vọng để các vết thương có thời gian để chữa lành, thì khả năng lây lan sang dịch bệnh sẽ rất cao.
Nhiễm khuẩn Chlamydial và herpesvirus đã được xác định với tỷ lệ tử vong đáng kể ở cá sấu Xiêm nuôi (C. siamensis), cá sấu nước ngọt (C. johnstoni) và cá sấu nước mặn. Các bệnh lý liên quan đến cả viêm kết mạc và viêm họng do herpesvirus gây ra, và hiện tượng nhiễm khuẩn chlamydia trên gan, lá lách, thận, tim và hệ hô hấp có tỷ lệ tử vong lên đến 100%. Các loài vi khuẩn khác, chẳng hạn như Providencia rettgeri và Edwardsiella tarda, đã được chứng minh là có thể lây nhiễm cho một số loài cá sấu, dẫn đến tình trạng nhiễm trùng huyết.
Thị trường da cá sấu trên toàn cầu đạt đỉnh vào khoảng năm 2013, với mức báo cáo là 1,9 triệu con, giảm xuống còn 1,0 - 1,4 triệu con trong những năm gần đây. Cùng với đó sự suy thoái do đại dịch tạo ra đã làm ảnh hưởng đáng kể đến các ngành sản xuất và đặc biệt và thời trang. Nhưng với tình hình dịch đang có những chuyển biến tích cực, nghề nuôi cá sấu hứa hẹn sẽ phát triển trở lại.
Nguồn: Prof C Greg Lutz. Semi-aquatic aquaculture: a review of crocodile farming, The Fish Site. 16/02/2022