Số lần cho ăn phù hợp trong ương giống cua biển

Nghiên cứu tiến hành thí nghiệm để đánh giá số lần cho ăn phù hợp để tối ưu sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng cua.

Cua biển
Cua biển.

Cua biển có tên tiếng Anh là mud crab, green crab, hay mangrove crab; tên tiếng Việt gọi là cua biển, cua sú, cua xanh, cua bùn. Cua biển là món hải sản ngon và giá trị dinh dưỡng cao, đặc biệt là đạm và canxi. Trong những năm gần đây mô hình nuôi cua biển quãng canh cải tiến kết hợp tôm sú - cua - cá để nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế cho người nuôi nên ngày càng được ưa chuộng hơn.

Việc sản xuất giống cua biển cũng được phát triển nhanh và tập trung ở 3 tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long (Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang). Việc sản xuất giống cua biển thành công, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: môi trường nước, nguồn cua bố mẹ, chất lượng ấu trùng và chất lượng thức ăn. Trần Minh Nhứt và ctv. (2010) cho rằng ương ấu trùng cua biển với hai giai đoạn (ương từ zoae 1 – zoae 5 và zoae 5 đến cua 1) với các mật độ và khẩu phần thức ăn khác nhau thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ sống. Theo Vutthichai and Norhasmariza (2016), ấu trùng ghẹ xanh được cho ăn với số lần khác nhau (2, 4 và 6 lần/ngày) thì không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống từ giai đoạn zoae 1- ghẹ 1. Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất giống cua biển ở Đồng bằng sông Cửu Long, ấu trùng cua được cho ăn mỗi ngày dao động từ 4-8 lần và tỷ lệ sống dao động tương đối lớn (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009; Trần Ngọc Hải và ctv., 2018). 

Xuất phát từ các vấn đề trên, nghiên cứu ảnh hưởng của số lần cho ăn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển được thực hiện nhằm xác định số lần cho ăn phù hợp, góp phần hoàn thiện qui trình kỹ thuật sản xuất giống cua biển. 

Phương pháp thí nghiệm

Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức với số lần cho ăn khác nhau: 

(i) cho ăn 4 lần/ngày (6h, 12h, 18h và 24h)

(ii) cho ăn 6 lần/ngày (2h, 6h, 10h, 14h, 18h, 22h) 

(iii) cho ăn 8 lần/ngày (3h, 6h, 9h, 12h, 15h, 18h, 21h và 24h). 

Ấu trùng được ương theo 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1 (ương từ zoae 1 đến zoae 4): bể ương có thể tích 120 L, nước ương có độ mặn 30‰ và mật độ ương 450 con/L. 

Giai đoạn 2 (ương từ zoae 4 đến cua 1): bể ương có thể 500 L (chứa 300 L nước) và nước có độ mặn 30‰. Tổng thời gian ương của cả 2 giai đoạn là 26 ngày. 

Giai đoạn zoae 1-zoae 4: ấu trùng được cho ăn Artemia bung dù với lượng 8-28 g/m3 /ngày. Khi ấu trùng đến giai đoạn zoae 3 thì bổ sung thức ăn 1 lần/ngày (hàm lượng protein ≥ 48%), với lượng thức ăn là 1-2 g/m3 /ngày. Giai đoạn zoae 4 đến megalop: ấu trùng được cho ăn Artemia nở với lượng 24 – 32 g/m3 /ngày và bổ sung thức ăn với liều lượng 2-4 g/m3 /ngày. Giai đoạn megalopa đến cua 1 chỉ cho ăn thức ăn với lượng 8-12 g/m3/ngày. Khi ấu trùng chuyển hoàn toàn sang megalop, giá thể lưới được bố trí vào bể ương (cỡ mắt lưới là 4 mm), với lượng giá thể là 1 m2 /bể.

Kết quả

Trong quá trình ương cua nhiệt độ và pH không biến động nhiều và nằm trong khoảng thích hợp cho sinh trưởng và phát triển cua. 

Hàm lượng TAN của các nghiệm thức tăng dần theo thời gian thí nghiệm và dao động từ 0,4-2,5 mg/L, cao nhất là ngày thứ 18 (2,5 mg/L) và thấp nhất là ngày thứ 3 (0,4 mg/L). Khi ương ấu trùng cua biển thay thế Artemia bằng thức ăn nhân tạo, hàm lượng TAN trong các nghiệm thức sẻ tăng cao tuy nhiên ấu trùng vẫn phát triển tốt. Tương tự, hàm lượng nitrite cũng tăng qua các ngày ương giữa các nghiệm thức dao động từ 0,3- 4,5 mg/L và tăng cao vào lúc gần thu hoạch nên ảnh hưởng không lớn đến sự phát triển của ấu trùng. 

Sau 12 ngày ương (ấu trùng ở giai đoạn zoae 4) thì tiến hành chuyển sang bể 500L (chứa 300L nước). Tỷ lệ sống đạt từ 42,9 – 51,0% nhưng không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức. Sau 26 ngày ương, tỷ lệ chuyển cua 1 ở các nghiệm thức là 100% và chỉ số biến thái của ấu trùng ở các nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Bên cạnh đó, tỷ lệ sống từ giai đoạn zoae 1 đến cua 1 đạt từ 2,6 – 3,0 %. Qua nghiên cứu thấy được số lần cho ăn khác nhau không ảnh hưởng đến tăng trưởng về chiều dài và chỉ số biến thái của ấu trùng cua biển. Khi ương ấu trùng cho ăn với số lần khác nhau (4, 6 và 8 lần/ngày) thì tỷ lệ sống của cua dao động từ 2,6-3,0% và khác biệt không ý nghĩa giữa các nghiệm thức.

Trong sản xuất cua biển, có thể cho ăn 4 lần/ngày nhằm làm giảm khâu chăm sóc và quản lý.

Theo Lê Quốc Việt và Trần Ngọc Hải

Đăng ngày 09/12/2019
NH Tổng Hợp
Kỹ thuật

Những tác hại từ độ đục nước ao nuôi

Một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và tốc độ tăng trưởng của tôm chính là độ đục của nước ao. Độ đục cao có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, từ cản trở quá trình quang hợp của tảo, ảnh hưởng đến hệ sinh thái ao nuôi, cho đến làm suy giảm chất lượng nước, gây bệnh cho tôm. Dưới đây là những tác hại chính của nước ao bị đục và cách khắc phục tình trạng này.

Ao nuôi tôm
• 09:49 06/03/2025

Ương tôm: Bước đệm quan trọng cho vụ nuôi thành công

Trong nuôi tôm, chất lượng con giống đóng vai trò quyết định, chiếm đến 50% thành công của vụ nuôi. Nếu con giống không đạt chuẩn, tôm dễ bị hao hụt, chậm lớn, còi cọc và dễ mắc bệnh, gây tổn thất không nhỏ cho bà con.

Tôm thẻ
• 10:36 28/02/2025

Tôm chậm lớn, vỏ mềm: Dấu hiệu thiếu khoáng hay do bệnh?

Việc tôm chậm lớn và vỏ mềm là những dấu hiệu có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó phổ biến nhất là tình trạng thiếu khoáng và bệnh tôm. Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tốc độ sinh trưởng của tôm, khiến người nuôi gặp nhiều khó khăn trong quá trình nuôi. Nếu không phát hiện và xử lý kịp thời, tôm có thể bị chết hàng loạt hoặc tăng trưởng kém, gây thiệt hại lớn về kinh tế. Bài viết này sẽ giúp người nuôi nhận diện nguyên nhân gây ra tình trạng tôm chậm lớn, vỏ mềm và cách khắc phục hiệu quả.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:34 28/02/2025

Dấu hiệu phân biệt tôm chết do khí độc với tôm chết do virus, vi khuẩn

Việc tôm chết bất thường luôn là nỗi lo lớn đối với người nuôi. Tuy nhiên, để có biện pháp xử lý phù hợp, trước hết cần xác định nguyên nhân khiến tôm chết là do khí độc hay do tác nhân gây bệnh như virus, vi khuẩn. Dưới đây là những dấu hiệu giúp người nuôi phân biệt hai nguyên nhân này.

Tôm thẻ
• 10:17 27/02/2025

Tôm hùm: Sản lượng xuất khẩu tăng nhưng người nuôi vẫn thua lỗ

Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng 1/2025 ghi nhận mức tăng trưởng tích cực, với kim ngạch đạt trên 774 triệu USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm ngoái. Đặc biệt, nhờ nhu cầu cao từ Trung Quốc, mặt hàng tôm hùm và cua có sự tăng trưởng mạnh mẽ, giúp tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường này đạt mức cao. Tuy nhiên, nghịch lý đang diễn ra là dù sản lượng xuất khẩu tăng, người nuôi vẫn phải chịu cảnh thua lỗ. Vậy đâu là nguyên nhân?

Tôm hùm
• 09:10 07/03/2025

Cua Cà Mau: Đặc sản trứ danh và tiềm năng xuất khẩu

Cà Mau, vùng đất cực Nam của Việt Nam, không chỉ nổi tiếng với ngành tôm xuất khẩu mà còn được biết đến với một đặc sản quý giá - cua biển.

Cua
• 09:10 07/03/2025

Bình Định: Sản lượng khai thác thủy sản tháng 2/2025 tăng 11,2% so với cùng kỳ

Trong tháng 2/2025, sản lượng thủy sản của tỉnh Bình Định đã ghi nhận mức tăng trưởng đáng kể, góp phần vào sự phát triển mạnh mẽ của ngành thủy sản tại địa phương.

Ngư dân
• 09:10 07/03/2025

Những tác hại từ độ đục nước ao nuôi

Một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và tốc độ tăng trưởng của tôm chính là độ đục của nước ao. Độ đục cao có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, từ cản trở quá trình quang hợp của tảo, ảnh hưởng đến hệ sinh thái ao nuôi, cho đến làm suy giảm chất lượng nước, gây bệnh cho tôm. Dưới đây là những tác hại chính của nước ao bị đục và cách khắc phục tình trạng này.

Ao nuôi tôm
• 09:10 07/03/2025

Xi phông đáy ao tôm: Nâng cao hiệu suất nuôi

Chất lượng nước là một trong những yếu tố then chốt quyết định thành công vụ nuôi, chất lượng nước tốt thì tôm nuôi mới phát triển tốt, ít bệnh và cho năng suất cao. Để duy trì nguồn nước tốt, việc xi phông đáy ao đã trở thành giải pháp phổ biến và hiệu quả, được nhiều bà con nông dân áp dụng, đặc biệt trong các mô hình nuôi tôm công nghệ cao.

Xi phông ao tôm
• 09:10 07/03/2025
Some text some message..