Khi dân số toàn cầu tăng lên, nhu cầu về cá/tôm cũng như áp lực tăng năng suất trong nuôi trồng thủy sản cũng tăng cao. Nuôi trồng thủy sản thâm canh phụ thuộc nhiều vào nguồn thức ăn thương mại, để sản xuất thức ăn này phải sử dụng một lượng lớn cá biển (bột cá và dầu cá) làm suy giảm nguồn lợi cá biển trong tự nhiên..
Mặt khác, các hệ thống nuôi thủy sản thường chỉ nhắm mục tiêu vào các động vật nuôi mà không xem xét sự đóng góp có thể có của hệ sinh thái ao và mạng lưới thức ăn có sẵn trong ao đến chế độ ăn của động vật.
Trong các hệ thống này, lưới thức ăn - chuỗi thức ăn trong ao gồm: thực vật phù du, vi khuẩn và các sinh vật khác - được phát triển thức ăn thừa và chất thải tôm/cá. Những sinh vật này sản xuất thức ăn nguồn thức ăn tự nhiên cho cá hoặc động vật giáp xác.
Tuy nhiên, chất thải thức ăn nuôi trồng thủy sản không dựa trên nhu cầu dinh dưỡng của chuỗi thức ăn và điều này tạo ra sự mất cân bằng trong hệ thống ao. Hậu quả là chất thải và thức ăn dư thừa chỉ bị phân hủy một phần. Phần còn lại tích lũy, làm suy giảm chất lượng nước của môi trường ao nuôi làm cho cá/tôm nuôi dễ bị bệnh.
Lấy mẫu chất lượng nước ở Bangladesh. Ảnh: © Kazi Ahmed Kabir/Thefishsite
Nhiều người nuôi cá giải quyết các vấn đề mất cân bằng dinh dưỡng do chất thải thức ăn nuôi trồng thủy sản bằng cách sử dụng chất khử trùng, hỗn hợp khoáng chất, prebiotic và men vi sinh. Có một khái niệm ao dinh dưỡng của người Hồi giáo nhằm mục đích nuôi cá hoặc tôm đồng thời tạo ra chất thải cân bằng dễ bị phân hủy. Do đó, việc tích lũy chất thải được giảm thiểu, quá trình khoáng hóa diễn ra nhanh chóng, việc sản xuất thức ăn tự nhiên cho cá/tôm là tối ưu và môi trường ao luôn sạch sẽ và khỏe mạnh.
Hiện nay, cho ăn trong ao dinh dưỡng tập trung vào việc tối ưu hóa tỷ lệ carbon-nitơ để tăng tốc độ khoáng hóa chất thải. Một lợi thế khác của hệ thống ao dinh dưỡng là sử dụng các thành phần giàu carbon rẻ hơn so với các thành phần giàu nitơ, giúp giảm chi phí cho ăn.
Thử nghiệm thành công – ao dinh dưỡng trong nuôi tôm cá
Khái niệm ao dinh dưỡng đang được thử nghiệm để nuôi tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) ở Việt Nam và cá rô phi sông Nile (Oreochromis niloticus) ở Bangladesh. Công trình này là một phần của dự án nghiên cứu kéo dài 5 năm do Đại học Wageningen ở Hà Lan dẫn đầu với sự hợp tác của WorldFish, một tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận quốc tế có trụ sở tại Malaysia.
Tại Việt Nam, nuôi tôm ở đồng bằng sông Cửu Long, các thí nghiệm lặp đi lặp lại trong ba năm cho thấy việc giảm 20% lượng thức ăn, kết hợp với bổ sung nguồn carbohydrate, đạt được năng suất tương tự như các hoạt động nuôi tôm thông thường, trong khi giảm chi phí vận hành khoảng 10%. Các thử nghiệm tại trang trại cho thấy sự tăng trưởng vật nuôi mỗi ngày trong các ao thử nghiệm cao hơn so với các ao thông thường.
Olivier Joffre, nhà khoa học tại WorldFish cho biết, trong tất cả các thử nghiệm tại trang trại sử dụng phương pháp này, ao cho thấy chất lượng nước ổn định hơn và ít bị biến động hơn khi bùng phát dịch bệnh so với phương pháp cho ăn thông thường.
Tinh bột ngô được dùng để bổ sung vào ao nuôi giúp giảm chi phí. Ảnh: cdn.baca
Các thí nghiệm sử dụng tinh bột ngô làm nguồn carbohydrate cũng cho thấy kết quả đầy hứa hẹn, so với mật mía thường được sử dụng. Nghiên cứu đang thực hiện là điều chỉnh công nghệ bằng cách xem xét các nguồn carbohydrate thích hợp nhất - tinh bột ngô, tinh bột sắn hoặc mật rỉ đường - và tần suất bổ sung.
Năng suất cao hơn
Ở Bangladesh, một nghiên cứu gần đây đã đánh giá xem việc giảm hàm lượng protein trong thức ăn dưới tỷ lệ tối ưu đã biết có ảnh hưởng đến năng suất cá và cân bằng nitơ trong ao nuôi cá rô phi bán thâm canh.
Kết quả cho thấy năng suất cao hơn 21% khi cá được cho ăn chế độ ăn P: E thấp, tiến sĩ Kazi Ahmed Kabir cho biết..
Hiệu suất tốt hơn của cá với chế độ ăn ý tưởng là do hiệu quả tăng cường của chế độ ăn uống đối với thức ăn tự nhiên trong ao - 64% tăng trưởng được ghi nhận từ thực phẩm tự nhiên này. Ngoài việc tăng năng suất, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn cũng dưới một. Chế độ ăn uống chỉ chứa 24% protein và 3 phần trăm bột cá. Trong các loại thức ăn thông thường, loại này thường có từ 30 đến 35% protein và 10-15% bột cá.
Theo Kabir, việc sử dụng chế độ ăn theo khái niệm này có khả năng giảm chi phí thức ăn và tăng lợi nhuận của nuôi cá rô phi trong ao cho cả nông dân quy mô nhỏ và thương mại, Đồng thời, nó làm tăng tính bền vững của ngành công nghiệp thức ăn cho cá bằng cách giảm thiểu việc sử dụng bột cá và giảm sự bao gồm protein trong chế độ ăn.
Nhân rộng mô hình
Khái niệm ao dinh dưỡng đang được phát triển với sự hợp tác của các đối tác trong ngành, các trường đại học và tổ chức nghiên cứu (Đại học Wageningen, Đại học Cần Thơ ở Việt Nam và WorldFish), cán bộ khuyến nông và nhỏ quy mô nông dân. Cách tiếp cận đa bên này đã giúp phù hợp hơn với hệ thống thức ăn với bối cảnh địa phương và khi dự án hoàn thành, có thể tạo điều kiện cho việc áp dụng công nghệ.
Bây giờ bước vào giai đoạn cuối cùng, dự án dự kiến sẽ chuyển những phát hiện của mình sang các sản phẩm thương mại mới như thức ăn và thức ăn có hàm lượng protein thấp, làm cho nuôi trồng thủy sản ao có lợi hơn, bền vững và có thể dự đoán được.
Bài viết này là một phần của loạt bài trên The Fish Site về sự đóng góp của nuôi trồng thủy sản bền vững cho an ninh lương thực và dinh dưỡng ở các nước đang phát triển. Nghiên cứu được hỗ trợ bởi Khoa học phát triển toàn cầu của NAO-WOTRO và Chương trình nghiên cứu CGIAR do WorldFish dẫn đầu về các hệ thống thực phẩm nông nghiệp cá.
“Các thí nghiệm trong ba năm cho thấy giảm 20% tải lượng thức ăn, kết hợp với carbohydrate bổ sung giá rẻ, đạt được năng suất tương tự như thực hành nuôi tôm thông thường, trong khi giảm chi phí vận hành khoảng 10%.”