Sò huyết (tên khoa học là Anadara granosa) là loại nhuyễn thể hai mảnh, sống ở vùng trung triều ven biển và các đầm phá... ở độ sâu 1-2 mét so với mặt nước. Loài sò này thường phân bố ở các vùng bãi triều cửa sông có đáy bùn mềm khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Tại Việt Nam, sò huyết xuất hiện nhiều nhất ở Phú Yên, Huế, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau.... Sò huyết có giá trị dinh dưỡng cao, bổ máu, được chế biến thành nhiều món ăn có tác dụng chữa bệnh tốt như tăng huyết áp, suy nhược cơ thể, lao phổi.
Sò huyết là loài động vật thân mềm quan trọng đối với nghề nuôi trồng thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Theo khảo sát gần đây của Võ Minh Thế và Ngô Thị Thu Thảo (2013) ở khu vực tỉnh Kiên Giang, Cà Mau có các mô hình nuôi sò huyết chủ yếu là: nuôi trên bãi triều, nuôi dưới tán rừng ngập mặn và nuôi trong ao, hoặc nuôi kết hợp với tôm sú. Nguồn giống sò huyết phục vụ cho các mô hình nuôi chủ yếu khai thác từ tự nhiên và sò huyết có nguồn gốc từ sản xuất nhân tạo hầu như chưa có. Quá trình thu hoạch và bảo quản sò giống kéo dài trước khi được vận chuyển và cung cấp cho người nuôi. Như vậy cần có các biện pháp đảm bảo tỷ lệ sống và sức đề kháng của sò giống trong quá trình vận chuyển.
Nghiên cứu của Welborn & Manahan (1990) đã chứng minh khả năng hấp thu trực tiếp đường glucose, maltose, cellobiose và cellotriose trong nước biển của ấu trùng hàu Crassostrea gigas và ấu trùng bào ngư Haliotis rufescens. Kết quả nghiên cứu của Uchida et al. (2010) về việc bổ sung đường glucose, maltopentaose và pullalan vào hệ thống ương nghêu Ruditapes philippinarum cho thấy chúng chỉ hấp thu glucose và chất này góp phần vào tăng trưởng cũng như tăng hàm lượng các axit hữu cơ trong cơ thể nghêu.
Do đó, nghiên cứu của Ngô Thị Thu Thảo được thực hiện nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của việc bổ sung glucose với các hàm lượng khác nhau vào nước biển trong quá trình giữ ẩm đến tỷ lệ sống và hao hụt khối lượng của sò huyết giống.
Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được thực hiện trên sò huyết giống với kích thước nhỏ (9,73 ± 0,95 mm) và lớn (15,85 ± 1,04 mm). Sò huyết được bố trí trong các rổ nhựa (12 con/rổ, 3 rổ/nghiệm thức) và phun nước biển 25‰ để giữ ẩm trong vòng 5 ngày, rổ sò được đặt trong các bể composit và được giữ ẩm bằng cách phun nước 4 giờ/lần.
Nghiệm thức 1: phun nước biển 25‰ (NB)
Nghiệm thức 2: phun nước biển 25‰ pha thêm glucose với hàm lượng 50 mg/L (NB + G50)
Nghiệm thức 3: 75 mg/L (NB + G70)
Nghiệm thức 4: 100 mg/L (NB + G100).
Sau thí nghiệm bảo quản, sò giống được thả vào các rổ nhựa (0,045 m2 ) và đặt trong bể nuôi ở độ mặn 25‰ trong 21 ngày. Hàng ngày, sò được cho ăn bằng tảo Chaetoceros một lần vào 7 – 8 giờ sáng. Bể nuôi có đáy cát dày 10 cm, được sục khí liên tục và nước được thay mới 1 lần/tuần.
Kết quả
Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của sò nhỏ đạt cao nhất ở nghiệm thức 4 phun nước biển + glucose 100 mg/L (91,6%) và sò lớn với nước biển + glucose 50 mg/L (36.1%).
Sau 5 ngày vận chuyển khối lượng hao hụt của sò thấp nhất khi tưới nước biển + glucose 50 mg/L (sò nhỏ: 7,73% và sò lớn: 5,17%)
Sau 21 ngày nuôi, tỷ lệ sống của sò huyết giống nhỏ đã được phun nước biển + glucose ở các hàm lượng 50, 75 và 100 mg/L (75.5 – 80.6%) cao hơn rất rõ so với phun nước biển thông thường và tăng 0,07g so với ban đầu). Trong khi đó, sò lớn tăng trưởng khối lượng cao nhất khi tưới nước biển + 50 mg/L glucose (tăng 0,09 g).
Kết quả từ nghiên cứu cho thấy được bà con có thể phun nước biển 25 ‰ kết hợp với glucose từ 50-100 mg/L để tưới giữ ẩm cho sò huyết trong quá trình vận chuyển đảm bảo ít hao hụt, đồng thời nâng cao tỷ lệ sống của sò giống nhỏ trong quá trình bảo quản và giai đoạn mới thả nuôi.
Khi sò huyết được đưa ra khỏi môi trường nước và phơi trong không khí, khoảng 80% số cá thể sẽ mở vỏ rất rộng trong 20 phút đầu tiên, chúng kéo dài hoạt động mở vỏ lên đến 6 giờ, thời gian sau đó chúng khép vỏ lại và một số bắt đầu chết sau 48h. Do đó, ứng dụng dụng glucose để bảo quản duy trì tỉ lệ sống của sò huyết là biện pháp tối ưu mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân.
Theo Ngô Thị Thu Thảo - Tạp chí khoa học đại học Cần Thơ.