Bệnh nhiễm trùng do nhóm vi khuẩn Aeromonas spp di động thường gặp ở nhiều loài động vật thuỷ sản nước ngọt. ở Việt Nam các loài cá nuôi lồng, bè và nuôi ao nước ngọt thường gặp bệnh đốm đỏ như: trắm cỏ, cá trôi, cá chép, cá mè, cá ba sa, cá bống tượng, cá he nuôi bè, cá tai tượng, cá trê, cá nheo... Bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila được phát hiện ở Mỹ vào năm 1989. Chủng này có tỷ lệ tử vong cao, có thể giết chết tới 50% số cá trong một lần bùng phát.
Bệnh bùng phát và tỉ lệ chết cao khi cá bị căng thẳng. Các triệu chứng thường bao gồm lở loét, xuất huyết và thối ở đuôi.
Các kiểu gen của Aeromonas hydrophila là Hypervirulent Aeromonas hydrophila (VAH) có nguồn gốc từ cá chép châu Á, nhưng các nhà nghiên cứu lo ngại về bệnh, có thể lây nhiễm một số loại cá và lây lan giữa các loài, trải rộng trên nhiều quốc gia. VAH gây ra một số bệnh, bao gồm nhiễm trùng xuất huyết, và được cho là nguyên nhân gây ra mất hơn 10 triệu kg cá da trơn Mỹ trong mười năm qua.
Theo giáo sư Mark Liles của Đại học Auburn cho biết: “VAH là căn bệnh quan trọng nhất trong ngành nuôi trồng thủy sản ở Hoa Kỳ. Bệnh cũng gây ra những vấn đề nghiêm trọng ở Mexico, Campuchia và Singapore”. Ông nói "nó ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh kế của người dân trong ngành nuôi trồng thủy sản ở nhiều quốc gia. Chúng tôi nghĩ rằng đây có lẽ là một đại dịch nhưng chưa được ghi nhận đầy đủ. "
Hiện tại, Đại dịch A. hydrophila ở cá nuôi được kiểm soát bằng kháng sinh, nhưng do vấn đề kháng kháng sinh, các nhà sản xuất được khuyến khích tìm kiếm các biện pháp thay thế. Giáo sư Liles đã phát triển hai chiến lược thay thế để kiểm soát và ngăn chặn dịch bệnh do VAH.
Một trong những chiến lược là thêm vi khuẩn Bacillus sp vào thức ăn cho cá, điều này cho phép giảm tỷ lệ tử vong tới 57%. Các vi khuẩn Bacillus sp trong thức ăn chăn nuôi đóng vai trò như một probiotic và bảo vệ cá chống lại nhiều bệnh do vi khuẩn. Thông qua một số cơ chế, bao gồm cả việc sản xuất một loại kháng sinh gọi là difficidin và kết hợp cùng sự cạnh tranh với vi khuẩn gây bệnh để lấy chất dinh dưỡng. Liles tin rằng do tác dụng sinh học của thức ăn được bổ sung Bacillus, nên ít có khả năng VAH sẽ phát triển và gây bệnh cho cá.
Ngoài việc giảm tỷ lệ tử vong bằng VAH từ 60% xuống còn 3%, thức ăn cũng giúp cải thiện sự tăng trưởng của cá hơn 32%. Liles nói rằng thức ăn bổ sung men vi sinh ảnh hưởng đến chất lượng nước, làm giảm nồng độ phốt pho và nitơ. Điều này có thể ngăn chặn hiện tượng phú dưỡng, thường dẫn đến các vấn đề khác như tảo nở hoa làm giảm nồng độ oxy trong nước và gây nguy cơ cho sự phát triển của cá, cho thấy tiềm năng cải thiện tính bền vững của nuôi trồng thủy sản.
Một chiến lược khác được thử nghiệm bởi Liles và cộng sự là tiêm chủng. Nhóm nghiên cứu đã sản xuất vắc-xin chống lại A. hydrophila bằng cách sử dụng một đột biến gen. Vắc-xin có hiệu quả và được tiêm cho cá bằng cách ngâm hoặc uống. Họ phát hiện ra rằng điều này tạo ra một phản ứng miễn dịch và bảo vệ cá da trơn khỏi vAH.
Kết quả cho đến nay vẫn đầy hứa hẹn, Liles cho biết "Chúng tôi rất vui mừng về khả năng kiểm soát mầm bệnh này thông qua nhiều công nghệ, bao gồm cả chế phẩm sinh học và vắc-xin, có thể được sử dụng như một phần của các hoạt động nuôi trồng thủy sản bền vững."