EHP đe dọa tôm thẻ chân trắng toàn châu Á
Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) là một ký sinh trùng phát hiện trong tôm nuôi chậm lớn. Nó đã được phát hiện đầu tiên trong gan tụy của tôm Nhật Bản P. japonicas từ Úc vào năm 2001 như là một vi bào tử không rõ tên. Sau đó chúng gây hại cho tôm sú P.monodon ở Thái Lan năm 2009 (Tourtip và cộng sự, 2009).
EHP là một loài vi bào tử sống ký sinh phát hiện trong tôm. Kích thước của bào tử là 1,7 x 1,0 μm, hình bầu dục (Rajendran et al., 2016). Chúng tồn tại và gây tổn thương chủ yếu trên gan tụy. Không có dấu hiệu nhiễm bệnh cụ thể nào được thấy trong tôm bị nhiễm EHP. Người ta nghi ngờ sự phát triển chậm của tôm và xác định tác nhân bằng phương pháp mô học hoặc phân tử. Bệnh lan truyền qua thức ăn từ tôm sang tôm và cuối cùng lây nhiễm sang toàn bộ hệ thống (Tangprasittipap và cộng sự, 2013). Các báo cáo gần đây cho thấy EHP là loài đặc hữu của châu Á và Úc và đang đe dọa tôm thẻ chân trắng L. vannamei.
Cơ chế tác động của EHP
EHP chỉ lây nhiễm vào các tế bào biểu mô ống ở gan tụy trong tôm làm hạn chế lượng dinh dưỡng, cá thể tôm bị nhiễm bệnh không hấp thu được dinh dưỡng và bị đói. Chúng không gây tử vong trên tôm nhưng kết quả là sự chậm phát triển một cách trầm trọng.
Sự gây hại do EHP tác động có mối quan hệ trực tiếp với số lượng bào tử ở gan tụy của tôm. Báo cáo của các nhà sản xuất cho thấy sự tăng trưởng của tôm càng xanh đã được báo cáo là giới hạn ở mức khoảng 12g, sản lượng khoảng 9 tấn/ha so với sản lượng trung bình là 12 tấn / ha. FCR có khuynh hướng gia tăng khi có EHP hiện diện và tăng trưởng chậm (từ 12g trở lại) được ghi nhận.
Chẩn đoán EHP
Phương pháp phát hiện Nested -PCR (Tang, et al., 2015) và phương pháp khuếch đại đẳng nhiệt LAMP (Loop-mediated isothermal amplification) có sẵn để kiểm tra phân của tôm bố mẹ và kiểm tra toàn bộ PL với sự có mặt của EHP (Tangprasittipap et al. 2013 và Suebsing et al, 2013).
Enterocytozoon hepatopenaei trên tế bào biểu mô ống của tôm sú nhiễm bệnh. (A) Mẫu nhuộm H&E của mô gan tụy cho thấy có nhiều bào tử của EHP (mũi tên). (B) Mẫu tươi của bào tử EHP. (C và D) Phần mô gan tụy cho thấy tính ưa acid và các thể vùi trong tế bào chất của tế bào biểu mô ống lượn (mũi tên). (E) Bào tử ở giai đoạn sớm (a) và giai đoạn trưởng thành (b). (Source: Somjintana Tourtip et al., 2009).
Enterocytozoon hepatopenaei (Microsporidian). Kích cỡ bào tử rất nhỏ, chỉ khoảng trên dưới 1 micron, rất khó nhìn nếu soi tươi dưới kính hiển vi quang học.
Các mầm bệnh cũng có thể được phát hiện bằng kính hiển vi quang học bằng cách sử dụng vật kính 100 với các phần mô màu hoặc đốm của HP, điều này dựa trên việc tìm ra các bào tử đặc trưng cực nhỏ (đường kính nhỏ hơn 1 micron) và đôi khi số lượng cũng rất ít, ngay cả trong mẫu bệnh phẩm bị nhiễm nặng. Do đó, phương pháp phát hiện PCR được ưu tiên và phù hợp để phát hiện EHP. Mặc dù hiệu quả, việc kiểm tra nguồn gốc con giống đòi hỏi việc kiểm tra từng con vật, một thực tế rất tốn kém..
Kiểm soát EHP
Một loại thuốc cụ thể được sử dụng để điều trị ký sinh trùng không có hiệu quả chống lại EHP vì tính đặc hiệu của chúng nằm trong các mô bào. Tuy nhiên, cũng có một số yếu tố giúp giảm thiểu thiệt hại. Đầu tiên và quan trọng nhất trong kiểm soát bệnh EHP trên tôm là mật độ thả giống. Mật độ thả thấp hơn, sẽ có tác động ít hơn từ các bào tử. Tại Ấn Độ, các trang trại có mật độ 20 con/m2 có sự tăng trưởng tốt hơn và tôm lớn hơn các ao có mật độ 50/m2. Một yếu tố thứ hai là độ mặn. Nồng độ muối thấp EHP sẽ ít tác động hơn và tôm tăng trưởng tốt hơn; độ mặn cao dường như tương quan với sự tăng trưởng kém và tác động lớn hơn từ EHP. Hơn nữa, giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải có một chiến lược ba tấng kết hợp: an toàn sinh học trong sản xuất, chuẩn bị và tăng cường cảnh giác trong suốt quá trình nuôi.
Chiến lược Ba tầng kiểm soát EHP trên tôm
1. An toàn sinh học trong các trại sản xuất giống
Các thực tiễn khoa học và các quy trình về an toàn sinh học ở các trại sản xuất giống có thể giúp kiểm soát EHP. Hầu hết các loài tôm sạch bệnh SPF nhập khẩu vào Thái Lan là hạn chế được EHP nhưng chúng thường bị ô nhiễm trong các cơ sở nuôi và trại sản xuất thức ăn thuần dưỡng do an toàn sinh học kém.
Thức ăn tươi sống
Một mối nguy nghiêm trọng trong an toàn sinh học là việc sử dụng động vật sống (ví dụ như giu nhiều tơ, trai, v..v ...) từ các nguồn địa phương hoặc nhập khẩu để nuôi tôm bố mẹ. Tôm bố mẹ trưởng thành trong ao, cũng như thức ăn sống bị nhiễm bệnh, EHP có thể lây lan qua phân. Việc sử dụng các động vật sống bao gồm giun nhiều tơ, trai, mực và artemia trong các cơ sở nuôi tôm bố mẹ có nguy cơ đáng kể về an toàn sinh học. Các thức ăn sống như các loài nhuyễn thể không gây nguy hiểm. Nguồn cấp thức ăn sống nên được sử dụng đông lạnh, tiệt trùng hoặc thậm chí chiếu xạ.
Xử lý khử trùng
Các cơ sở chế biến và trại sản xuất phải được làm sạch hoàn toàn, rửa sạch và khử trùng bằng caustic soda (Dung dịch natri hydroxyd 2,5%). Đã được đề nghị rằng tất cả các thiết bị, đường ống và bồn chứa phải được ngâm trong dung dịch sodium hydroxide 2.5% trong ít nhất 3 giờ. Sau khi xử lý ngâm, nên được rửa sạch và tất cả các vật liệu được đã xử lý phải để khô trong một thời gian. Trước khi sử dụng, rửa bằng chlorine ở 200 ppm và pH dưới 4,5. Hoặc rửa và ngâm với hỗn hợp nước ngọt và các chất hoá học (iodine và formaldehyde) để làm suy yếu sự thụ động của bào tử trứng và nauplii làm giảm việc truyền bệnh.
2. Chuẩn bị ao nuôi
Chất hữu cơ cao thường liên quan đến số lượng bào tử. Do đó, phải xử lý lượng mùn bã hữu cơ đúng cách trước khi thả. Vì các bào tử thường kháng với nhiều điều kiện môi trường, với những loài khác nhau có tính nhạy cảm khác nhau, những gợi ý chung là phải loại bỏ các chất hữu cơ tích tụ và làm cho pH đáy ao lên đến 12 để có thể giết chết bào tử. Nó đã được khuyến cáo dùng để khử trùng cho ao đất với liều lượng rất lớn canxi oxit hoặc vôi, ở mức 6.000 kg/ha hoặc cao hơn. Đáy ao phải khô hoàn toàn.
3. Quản lý ao nuôi đảm bảo nước ao sạch và đáy ao sạch
Sau khi lắng đọng trầm tích, sử dụng các sản phẩm xử lý thích hợp từ giai đoạn đầu của quá trình nuôi để ngăn sự tích tụ một lượng lớn chất hữu cơ. Có thể được sử dụng riêng biệt hoặc kết hợp với thay nước và xi phong nền đáy. Mục đích là làm giảm lượng chất hữu cơ tích tụ và do đó làm giảm nơi cư trú tiềm tàng của các bào từ trùng.