Hai nghiên cứu liên quan khác được công bố trên tạp chí Journal of Shellfish Research đã chỉ ra rằng một chủng vi sinh vật có lợi khác, OY15, đã giúp nâng cao tỷ lệ sống của ấu trùng trong hai tuần đầu tiên, giai đoạn quan trọng nhất trong giai đoạn phát triển của ấu trùng. Ông Gary Wikfors, đồng tác giả của hai nghiên cứu trên cho biết, chúng tôi hy vọng, dòng vi khuẩn có lợi này sẽ mang lại lợi ích cho ngành sản xuất động vật có vỏ. Tại các trại giống thương mại, các ấu trùng động vật có vỏ có tỷ lệ sống trong hai tuần đầu rất thấp, vì vậy nghiên cứu này là một bước tiến quan trọng trong ngành sản xuất động vật có vỏ.
Hiện nay, nguồn giống từ tự nhiên ngày càng bị thu hẹp do mất môi trường sống, ô nhiễm, biến đổi khí hậu và các tác nhân khác. Do vậy, các trại giống có nhiệm vụ là sản xuất ra các con giống để bổ sung nguồn lợi tự nhiên. Trong các trại sản xuất giống động vật có vỏ, các vi khuẩn gây bệnh như Vibrio là một trong các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tỷ lệ chết của các ấu trùng hàu, đặc biệt trong giai đoạn đầu của phát triển ấu trùng. Điều này đã gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người nuôi thương mại cũng như ngành sản xuất động vật có vỏ, chiếm khoảng 25% tổng giá trị nuôi trồng thủy sản thế giới.
Mặc dù các chất kháng sinh vẫn được sử dụng để điều trị bệnh trong nuôi trồng thủy sản ở nhiều nước trên thế giới, tuy nhiên, việc lạm dụng chất kháng sinh có thể dẫn đến sự kháng thuốc của các vi khuẩn gây bệnh. Do vậy, chế phẩm sinh học ngày càng được sử dụng rộng rãi trong việc cải thiện dinh dưỡng, tăng cường hệ tiêu hóa và phòng trị bệnh trong nuôi trồng thủy sản.
Do nhu cầu đối với các sản phẩm thủy sản thân thiện với môi trường ngày càng tăng, việc sử dụng chế phẩm nhằm phòng bệnh và cải thiện dinh dưỡng trong nuôi động vật có vỏ cũng ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà sản xuất thủy sản. Một số các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, sự phát triển chế phẩm sinh học có thể được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản là một quá trình đòi hỏi nghiên cứu cơ bản và các thử nghiệm thực tiễn.
Ông Diane Kapareiko, một nhà vi trùng học ở phòng thí nghiệm Milford cho biết, mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm phân lập và đánh giá một dòng vi khuẩn có lợi mới mà khi kết hợp vi khuẩn có lợi này với thức ăn trong cái trại sản xuất giống động vật có vỏ có thể cải thiện đáng kể tỷ lệ sống của ấu trùng. Ngoài ra, nghiên cứu còn thử nghiệm sự tác động của dòng vi khuẩn có lợi đến tỷ lệ sống của ấu trùng hàu trong hai tuần đầu. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành thận trọng, từng bước một để phát hiện dòng vi khuẩn có lợi tốt nhất. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, khi tiếp xúc với vi khuẩn có lợi OY15, ấu trùng hàu đạt tỷ lệ sống cao nhất.
Các nhà khoa học ở Milford đã phân lập 26 vi khuẩn có lợi từ hàu và điệp, trong đó 16 vi khuẩn có lợi này chứng minh có hiệu quả trong việc ngăn chặn mầm bệnh thuộc dòng vi khuẩn Vibrio (B183) trên ấu trùng động vật có vỏ. Các thức ăn vi tảo này cho thấy rằng dòng vi khuẩn có lợi này sẽ ngăn chặn hiệu quả nhất sự phát triển của mầm bệnh, do vậy có thể đảm bảo tỷ lệ sống của ấu trùng hàu.
Nghiên cứu đã tập trung vào giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình phát triển của ấu trùng, giai đoạn có tỷ lệ chết cao nhất. Dòng vi khuẩn có lợi OY15 đã có ảnh hưởng tích cực đến tỷ lệ sống của ấu trùng hàu, đến sự phát triển của thực vật phù du, được dùng làm thức ăn cho ấu trùng và ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của hàu trong các điều kiện nuôi ấu trùng thử nghiệm.
Nghiên cứu cũng khẳng định việc sử dụng vi khuẩn có lợi xuất hiện một cách tự nhiên đã giúp các ấu trùng hàu chống lại các vi khuẩn gây bệnh và nâng cao tỷ lệ sống. Các kết quả của nghiên cứu có thể được áp dụng trong việc phân lập các vi khuẩn có lợi đối với các ứng dụng nuôi tương tự và tạo nền tảng cho việc phát triển thực phẩm chức năng dùng trong các trại sản xuất giống động vật có vỏ, kết hợp với chế phẩm sinh học.