GĐ Nguyễn Xuân Nam: Doanh nghiệp miền Trung khó trăm bề

Nhân chuyến công tác miền Trung, PV Thanh Phương của Thương mại Thủy sản đã có dịp trao đổi với anh Nguyễn Xuân Nam, GĐ Công ty TNHH Hải Vương (HAVUCO ), đồng thời là Phó Chủ tịch Hiệp Hội Cá ngừ Việt Nam và Phó Chủ tịch Hiệp hội Cá ngừ Đại dương Khánh Hòa về hoạt động thủy sản tại khu vực này.

GD Xuan Nam
Nguyễn Xuân Nam, GĐ Công ty TNHH Hải Vương (HAVUCO

PV. Anh cho biết những nỗ lực gần đây của Khánh hòa vận động phát triển mô hình tàu mẹ - tàu con nhằm giảm chi phí cho ngư dân, đảm bảo chất lượng cho nguyên liệu chế biến?

GĐ Nguyễn Xuân Nam (GĐ NXN). Hiệp hội Cá ngừ Việt Nam (VINATUNA) và Hiệp hội Cá ngừ Đại Dương Khánh Hòa (KHAOTA) đang rất tích cực tìm giải pháp hỗ trợ, giúp bà con ngư dân bám biển. Cách đây vài tháng, KHAOTA đã đề xuất Sở NN&PTNT chủ trì hình thành các đội khai thác theo mô hình tàu mẹ-tàu con. Hiệp hội và cơ quan chức năng đã tạo điều kiện tối đa về tổ chức và hậu cần trên biển để giúp các mô hình này hoạt động, cụ thể đã bố trí 1 tàu tàu vỏ sắt 600 tấn thu mua sản phẩm trên biển, có thể cấp đông âm sâu (50- 600) phẩm cấp sashimi, đồng thời thành lập 6 ngư đội tàu con câu cá ngừ ở Trường Sa.

Chuyến biển đầu tiên bán được giá cao, thời gian bám biển lâu hơn, sản lượng cao hơn, bà con rất hả hê. Thế nhưng phía DN lại chịu nhiều thiệt thòi, thậm chí lỗ. Đó là vì hai bên đã thỏa thuận mua sản phẩm trên biển với mức giá ‘chết’. Khi mua giá cao, nhưng khi đưa sản phẩm về bờ thì giá trên đất liền đã xuống thấp.

PV. Công ty mình có dự định bắt tay với ngư dân theo cách trên không, thưa anh?
 

GĐ NXN. HAVUCO cũng đang hỗ trợ Công ty CP Hải Vương - chủ sở hữu của chiếc tàu thu mua - trong hoạt động này. Cách đây không lâu, tôi đã ngồi bàn với anh Hải, GĐ Công ty CP Hải Vương về việc hai bên hợp tác cùng mua, cùng bán để chia sẻ rủi ro, rút kinh nghiệm từ chuyến đầu tiên để các chuyến sau hoạt động có hiệu quả hơn. Chúng tôi cũng nhận ra một thực tế, là thuyền trưởng và ngư dân mình có thói quen đi biển ngắn ngày. Quá 30 ngày là họ muốn về vì nhớ gia đình. Chúng tôi bàn nhau, nếu thuyền viên vẫn theo cách đó thì phải thành lập nhiều ngư đội hơn để đổi người, đổi tàu ra vô theo kiểu ca kíp. Ngoài ra, DN thu mua cũng sẽ phải khuyến khích ngư dân cùng góp vốn để họ có trách nhiệm hơn.

PV. Được biết, ngoài việc hợp tác với ngư dân để thu gom nguyên liệu, các DN thủy sản miền Trung cũng rất năng động tìm các nguồn từ nước ngoài?
 

GĐ NXN. Nếu chỉ dựa vào nguồn nguyên liệu ít ỏi trong nước, DN miền Trung khó lòng mà duy trì hoạt động. Bản thân công ty chúng tôi cũng phải NK 60% nguyên liệu. Việc tìm được nguồn nguyên liệu và cạnh tranh thu mua đã khó, nhưng hoàn tất các thủ tục NK và thủ tục XK còn khó hơn, bởi gần đây nhà nước mình thay đổi chính sách hải quan, siết chặt các hình thức nhập để chế biến tái xuất, gia công, chuyển khẩu và tạm nhập tái xuất.

PV. Anh có thể nói rõ hơn?
 

GĐ NXN. Hiện Nhà nước đang có chính sách ân hạn thuế 275 ngày cho DN nhập nguyên liệu để chế biến XK. Tuy thủ tục hoàn thuế hết sức chặt chẽ nhưng nhiều DN Trung Quốc vẫn lợi dụng chính sách này để nhập lậu qua các cửa khẩu biên giới phía Bắc.

Chẳng hạn với thủy sản, DN Trung Quốc thường nhập dưới dạng chuyển khẩu hay tạm nhập tái xuất qua cảng Hải Phòng, Quảng Ninh, sau đó dùng xe tải, xe lạnh hoặc xe công ten nơ để đưa hàng sang cửa khẩu đường bộ vào Trung Quốc. Các nhà máy Trung Quốc nhập nguyên liệu đó vào nội địa và khai báo đó là nguyên liệu của tàu thuyền nước họ khai thác trên biển, vì vậy, khi XK họ được hoàn thuế GTGT 13% theo chính sách khuyến khích của Trung Quốc. Với 13% đó, họ thừa sức chi trả chi phí chuyển tải hay tạm nhập tái xuất qua Việt Nam. Họ có thể bán thấp hơn mình 5% mà vẫn có lãi 5%. Việc này khiến các DN Việt Nam không sao cạnh tranh nổi. Đó cũng là một phần lý do tại sao họ có thể tranh mua thủy sản tại chỗ của Việt Nam với giá cao hơn chính DN Việt Nam. 

tau-ca-tren-bien

Phát hiện ra kẽ hở trong chính sách XNK, khiến cho không chỉ thủy sản mà cả nhiều loại sản phẩm khác như ngà voi, động vật quý hiếm…cũng bị buôn lậu qua cửa khẩu Việt Nam theo con đường tạm nhập tái xuất, Tổng cục Hải quan đã quyết liệt rà soát các chính sách và thủ tục tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu. Từ đó, Hải quan không chỉ quy định DN XNK phải hoạt động trên 1 năm thì mới đủ điều kiện được hưởng chính sách ân hạn thuế, mà một dự thảo có thể sẽ được thông qua còn yêu cầu các DN phải ký quỹ hoặc được ngân hàng bảo lãnh tiền thuế NK.

Dĩ nhiên, bảo lãnh cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng phải giữ lại một khoản tín dụng, để đảm bảo thanh toán. Ngoài ra, DN phải trả phí bảo lãnh tối thiểu là 2,5% trên tổng số tiền bảo lãnh. Với mức thuế NK lên đến 21%,  làm sao DN lo đủ tiền để vừa nhập nguyên liệu vừa ký quỹ, đóng bảo lãnh, nhất là trong điều kiện khó khăn hiện nay? Nếu dự thảo này được thông qua, nhiều DN sẽ ‘chết đứng’.

PV. Anh đề xuất thế nào về vấn đề này?

GĐ NXN. Đối với các loại hình tạm nhập, tái xuất, nên có chính sách kiểm soát riêng. Cần phải kiểm soát chặt về hàng hóa, thuế và về chính DN tham gia hoạt động đó. Nếu không, Nhà nước sẽ thất thu số tiền thuế rất lớn. Hiện nay, thương nhân Trung Quốc chỉ cho một người nào đó vài chục triệu để đứng ra thành lập công ty, vài ngày sau là công ty đó đã có thể tạm nhập tái xuất như nói trên.

Theo tôi, nên đưa loại hình tạm nhập, tái xuất vào loại hình kinh doanh có điều kiện, có chế độ kiểm soát riêng. Chẳng hạn, DN kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định tối thiểu 6 tỷ đồng. Vậy muốn hoạt động tạm nhập tái xuất DN cũng phải có khoản vốn pháp định tối thiểu là bao nhiêu. Kèm theo là quy định về kinh nghiệm, chẳng hạn đã hoạt động XNK ít nhất là 1 năm.

Hiện nay quy định ân hạn thuế 275 ngày đã áp dụng với các DN sản xuất XK, tức là các DN buộc phải có ít nhất 1 năm kinh nghiệm. Vậy tại sao DN tạm nhập tái xuất lại không bắt buộc phải có 1 năm kinh nghiệm trở lên? Như thế Nhà nước vừa tránh được rủi ro thất thu thuế, vừa hạn chế nguy cơ DN nước ngoài lợi dụng chính sách này gây ảnh hưởng cho các DN Việt Nam. Ngoài ra, nhà nước cũng nên xem xét đưa thuế NK cá ngừ về 0% để tạo nguồn nguyên liệu cho các nhà máy chế biến hoạt động thuận lợi.

PV. Liệu có gây ảnh hưởng đến sản xuất trong nước?

GĐ NXN. Cá ngừ NK và cá khai thác ở nước mình thuộc 2 loại phẩm cấp hoàn toàn khác nhau. Lúc nào giá cá ngừ của Việt Nam cũng cao hơn hẳn nước ngoài. Với chi phí cấp đông trên tàu rất rẻ, chỉ vài đôla thôi mà cá tươi của mình bán được một trăm mấy chục ngàn một kilôgam. Vì thế, nếu có đưa thuế NK cá ngừ về bằng 0% thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến ngư dân.

Vả lại, nếu DN XK mạnh thì chắc chắn sẽ kích thích ngành khai thác phát triển mạnh. Không ai gắn liền quyền lợi với ngư dân bằng DN. Hiện nay, nhiều DN đang hỗ trợ ngư dân. Ngư dân mình trình độ công nghệ thấp, khả năng ngoại ngữ không cao, không nắm rõ những vấn đề kỹ thuật, pháp lý….Chỉ có DN mới nắm được thông tin và chỉ vẽ cho ngư dân. Vì thế, việc nhà nước có những chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện DN cũng chính là tạo điều kiện cho ngư dân.

Về lâu dài, nhà nước rất nên có biện pháp để tăng cường ngành khai thác trong nước. Cá ngừ đại dương là những loài di cư, từ lúc đẻ ra cho đến khi chết không thuộc về một quốc gia nào. Vì thế mình không thể nói đó là cá Việt Nam. Nếu mình không bắt được thì nó cũng sẽ chạy qua vùng biển khác và bị tàu nước khác lớn, đủ trình độ khai thác mất.

PV. Quy định IUU có gây ảnh hưởng đến việc NK nguyên liệu của DN không?

GĐ NXN. Quy định IUU thì đơn giản và minh bạch mà về mình lại hóa ra phức tạp. Đối với các thủ tục giấy tờ nhập khẩu liên quan đến IUU, cơ quan thẩm quyền các nước như Thái Lan hoặc Trung Quốc linh hoạt hơn, khôn khéo hơn mình rất nhiều. Họ sang tận nơi làm việc với Liên minh Châu Âu để thỏa thuận những điều kiện rất thuận lợi cho DN.

Việt Nam đang đòi hỏi lô hàng cá phải do tàu có code châu Âu và có chứng nhận khai thác (Catch certificate) mới đủ điều kiện chứng nhận để XK đi châu Âu. Nhưng thực tế, có bao nhiêu con tàu có code châu Âu? Tàu của Mỹ tốt nhất thế giới nhưng không hề có code châu Âu, họ chỉ cần FDA cấp phép là đủ. Nếu mình nhập nguyên liệu từ tàu của Mỹ, lô hàng có catch certificate hẳn hoi vẫn không được cấp phép xuất đi châu Âu. Trong khi đó, người Mỹ vẫn bán đi châu Âu bình thường. Chính những con cá đó qua Thái Lan cũng bán được đi châu Âu, vì theo quy định nó đã qua một công đoạn chế biến và kiểm soát chất lượng bằng HACCP ở một nhà máy có code châu Âu. Cơ quan thẩm quyền Thái Lan và các nước khác vẫn cấp catch certificate, chỉ riêng cơ quan thẩm quyền Việt Nam lại không cấp.

Cách làm đó đã khiến DN phải chịu thiệt thòi, hạn chế rất lớn khả năng cạnh tranh mua nguyên liệu để xuất qua châu Âu. Đáng ra mua được 10 thì chỉ mua được 3 vì chỉ có 3 tàu được cấp code châu Âu. Mặt khác, nếu mua ở tàu có code châu Âu thì anh phải trả đắt hơn 200 USD/ tấn. Với DN nhập 3.000 tấn cá mỗi năm, số tiền phụ trội là 600.000 USD/năm. Đây là thiệt hại cho DN, cho đất nước. Ở Thái Lan, sản phẩm chỉ cần chế biến ở nhà máy có code châu Âu là đủ mà không nhất thiết phải do tàu có code châu Âu khai thác.

Mâu thuẫn thấy rõ, khi cũng con cá đó do tàu không có code châu Âu khai thác, có catch certificate, sau khi đưa qua Trung Quốc hay Inđônêxia sơ chế, hoặc nhiều khi vẫn để nguyên con để kiểm tra và cấp health certificate, xuất sang Việt Nam thì DN Việt Nam lại xuất đi châu Âu được. Vậy là do quy định của chính cơ quan thẩm quyền Việt Nam mà mình phải chạy đường vòng và mất thêm cho khâu trung gian 200 USD mỗi tấn.

Hiện nay, việc cấp catch certificate được giao cho Nafiqad, còn Cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi lại cấp chứng thư cho tàu khai thác trong nước. Như vậy, cùng một loại giấy mà cả hai cơ quan thẩm quyền đều cấp. Nafiqad đem kết hợp chuyên môn làm HACCP để quản lý, nên đòi hỏi tàu phải có code châu Âu. Tàu cá Việt Nam kích thước nhỏ như thế này thì lấy đâu ra tàu có code châu Âu? Ngay cả cảng cá cũng có nhiều điều kiện chưa thỏa mãn HACCP, nhưng phía châu Âu vẫn chấp nhận. Vậy tại sao mình không cấp giấy chứng nhận cho DN? EU chỉ quy định tàu đánh bắt phải khai báo chứ không yêu cầu phải có code châu Âu, họ chỉ cần chứng minh hoạt động khai thác là có quản lý, không phải là bất hợp pháp. Nâng cao điều kiện an toàn vệ sinh trên tàu là đúng, nhưng về thủ tục, IUU chỉ yêu cầu bảo đảm tính hợp pháp của sản phẩm chứ đâu có gắn gì đến an toàn vệ sinh của tàu.

Nguyên liệu nhập vào, DN đã phải kiểm soát theo tiêu chuẩn châu Âu, giờ lại bắt thêm tàu có code châu Âu, khi xuất ra lại kiểm một lần nữa, nhưng bản thân DN vẫn phải tự chịu trách nhiệm tại thị trường. Như thế là chồng chất mấy tầng trách nhiệm. Tất nhiên, vì trách nhiệm đảm bảo chất lượng, DN có thể làm hết những thủ tục ấy, nhưng cơ quan nhà nước cũng phải hết sức vì DN. Nếu vì sợ sai sót mà ra sức bóp thật chặt thì DN chỉ có chết. Nếu cần, các DN sẵn sàng bỏ chi phí để tổ chức đoàn các cơ quan thẩm quyền đi sang châu Âu và các nước khác để học tập, trao đổi tháo gỡ cho DN. Gỡ được những vướng mắc đó, một DN quy mô trung bình cũng đã có thể tiết kiệm vài triệu USD mỗi năm.

PV. DN Việt Nam có thể đóng tàu và trực tiếp đi thu gom nguyên liệu nước ngoài không?

GĐ NXN. Theo quy định IUU, tàu đánh bắt không được sang cá qua tàu chuyên chở trên biển mà phải vào cảng, có người giám sát sản lượng qua mạn tàu mới được cấp chứng thư catch certificate. Việc quản lý thực hiện theo đầu mối là cảng và phân công trách nhiệm cấp chứng thư rất rõ ràng. Thế nên tàu Việt Nam ra vùng biển quốc tế thu gom cá ngừ của tàu nước ngoài cũng không được.

PV. Xin cảm ơn anh.

Đăng ngày 27/08/2012
Thanh Phương thực hiện
Kinh tế

Xuất khẩu thủy sản gần tới đích 10 tỷ đô

Xuất khẩu thủy sản trong 11 tháng đã đạt gần 9,2 tỷ USD, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, đích 10 tỷ USD năm 2024 trong tầm tay.

Tôm đông lạnh
• 11:08 03/12/2024

Giải pháp giúp giảm hao hụt trong quá trình vận chuyển thủy sản xuất khẩu

Ngành thủy sản xuất khẩu đang đối mặt với thách thức lớn về việc duy trì chất lượng và độ tươi ngon của sản phẩm trong quá trình vận chuyển quốc tế. Đây là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến uy tín và giá trị kinh tế của ngành thủy sản Việt Nam.

Thủy sản
• 10:49 29/11/2024

Xuất khẩu một tháng trở lại tỷ đô sau 27 tháng

Tháng 10/2024, xuất khẩu thủy sản 1,1 tỷ USD, tăng gần 31% so với cùng kỳ năm ngoái và đây là lần đầu tiên sau 27 tháng kể từ tháng 6/2022 đã trở lại mức tỷ đô một tháng. Lũy kế 10 tháng đầu năm 2024 đạt 8,33 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái với các mặt hàng chủ lực và các thị trường chính đều tăng.

Tôm thẻ
• 10:00 25/11/2024

Điểm mặt rào cản chuyển đổi xanh trong chế biến tôm đông lạnh

Chuyển đổi xanh trong ngành chế biến thủy sản, đặc biệt là tôm đông lạnh, không chỉ là xu hướng mà còn là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế. Tuy nhiên, hành trình này đang gặp nhiều rào cản lớn liên quan đến chi phí, cơ sở hạ tầng và quản lý năng lượng.

Chế biến tôm
• 10:29 21/11/2024

Tép Bạc trở thành đối tác chiến lược phân phối sản phẩm Virbac

Nuôi tôm tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức lớn, từ việc cải thiện năng suất đến các vấn đề như lột xác không hoàn hảo, mềm vỏ và tỷ lệ chết cao đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả sản xuất. Một trong những giải pháp then chốt để giải quyết tình trạng này là bổ sung khoáng chất đầy đủ trong suốt quá trình nuôi.

Tepbac
• 02:27 04/12/2024

Nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao, hướng đi bền vững của người nuôi tôm tại Bình Định

Ứng dụng công nghệ Semi-Biofloc trong nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm đã được Trung tâm Khuyến nông Bình Định triển khai xây dựng mô hình và thực hiện từ năm 2020.

Ao nuôi tôm
• 02:27 04/12/2024

Xuất khẩu thủy sản gần tới đích 10 tỷ đô

Xuất khẩu thủy sản trong 11 tháng đã đạt gần 9,2 tỷ USD, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, đích 10 tỷ USD năm 2024 trong tầm tay.

Tôm đông lạnh
• 02:27 04/12/2024

Men vi sinh trong phòng ngừa bệnh trong nuôi tôm

Các bệnh gây hại cho tôm như bệnh đầu vàng, bệnh đốm trắng, bệnh gan tụy, hay bệnh nấm thường xuyên xảy ra và có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho năng suất và chất lượng sản phẩm.

Vi sinh
• 02:27 04/12/2024

Các yếu tố quan trọng cần biết khi cho tôm ăn

Cho tôm ăn là một công đoạn rất quan trọng trong quá trình nuôi, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tốc độ phát triển, và hiệu quả kinh tế của ao nuôi. Để đảm bảo tôm phát triển tốt và hạn chế các vấn đề về môi trường ao nuôi, người nuôi cần nắm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và cách cho tôm ăn.

Thức ăn tôm
• 02:27 04/12/2024
Some text some message..