Cá măng sữa, hay cá măng biển (Chanos chanos) là loại cá được dùng trong ẩm thực phổ biến tại khu vực Đông Nam Á. Cá măng sữa được cho là giàu protein, vitamin B và selen. Đồng thời, chúng cũng là một nguồn đáng kể các chất béo, chất béo bão hòa, cholesterol và calo.
Tiêu thụ thường xuyên cá măng sữa giúp phát triển trí não và trí nhớ của trẻ em, ngăn ngừa bệnh tim, kiểm soát mức cholesterol, nuôi dưỡng mắt và giảm trầm cảm. Ngoài ra, Omega 3 rất tốt cho bà bầu để tăng sữa mẹ và chất lượng sữa.
Hiện nay, cá Măng sữa được xếp vào nhóm có nguy cơ tuyệt chủng rất cao. Quần đàn cá Măng sữa tự nhiên ở Việt Nam hiện đã suy giảm nghiêm trọng, số lượng cá trưởng thành ngoài tự nhiên ngày càng cạn kiệt.
Ở Việt Nam, cá Măng sữa phân bố ở vùng biển Đông vịnh Bắc bộ và vùng biển miền Trung, bắt gặp nhiều nhất ở Bình Định. Cá Măng sữa là đối tượng nuôi mới được quan tâm gần đây, cá được nuôi thử nghiệm ở một số tỉnh ven biển ở hình thức nuôi quảng canh hoặc nuôi ghép trong các ao nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh để làm sạch môi trường và giảm rủi ro về bệnh cho tôm nuôi.
Hiện nay giống cá Măng sữa cho hoạt động nuôi thủy sản ở nước ta đang hoàn toàn phụ thuộc vào khai thác từ tự nhiên, chưa đáp ứng được nhu cầu nuôi của người dân về số lượng, chất lượng giống và thời vụ nuôi.
Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của tỉ lệ cho ăn và tần suất cho ăn lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và hệ số chuyển đổi thức ăn, hệ số phân đàn của của cá Măng sữa giai đoạn cá hương lên cá giống góp phần hoàn thiện kỹ thuật ương để cung cấp giống ra thị trường.
Cá Măng sữa được xếp vào nhóm có nguy cơ tuyệt chủng rất cao. Ảnh: fishesofaustralia.
Ba tỉ lệ cho ăn là 5% khối lượng cá (BW) /ngày, 10 % BW/ngày và 15 % BW/ngày kết hợp với 3 tần suất cho ăn là 2 lần/ngày (2F), 3 lần/ngày (3F) và 4 lần/ ngày (4F) tạo thành 9 công thức thí nghiệm. Mỗi nghiệm thức có 3 lần lặp lại. Cá hưỡng cỡ trung bình 2,7 ±0,08 cm/con được nuôi trong 27 bể com compiste thể tích 500 L/bể với mật độ 1,5 con/L. Thời gian thí nghiệm trong 28 ngày.
Khối lượng trung bình của cá tại thời điểm kết thúc thí nghiệm đạt cao nhất ở nghiệm thức 4F*10%BW (4,39 g/con) và 4F*15%BW (4,37 g/con) nhưng không khác biệt có ý nghĩa với khối lượng cá ở nghiệm thức 3F*10%BW (4,26 g/con). Cá ở nghiệm thức 2F*5%BW có khối lượng trung bình thấp nhất (3,17g/con)
Tương tự như tăng trưởng khối lượng, chiều dài trung bình của cá tại thời điểm kết thúc thí nghiệm ở nghiệm thức 2F*5%BW thấp nhất (4,34 cm/con) nhưng không khác biệt với cá ở các nghiệm thức 2F*10%BW, 2F*15%BW và 3F*5%BW. Chiều dài cá ở nghiệm thức 3F*10%BW cao nhất (6,20 cm/ con) nhưng không khác biệt với cá ở nghiệm thức 3F*15%BW hoặc các nghiệm thức có 4 lần cho ăn (P>0,05).
Tốc độ tăng trưởng về chiều dài cá cũng phản ánh tương tự ở khối lượng cá. Như vậy kết hợp cho cá ăn 3 lần/ngày với tỉ lệ cho ăn 10 %/BW/ngày (nghiệm thức 3F*10% BW) tối ưu nhất về mặt tăng trưởng của cá và giảm số lần cho cá ăn, giảm thời gian lao động chăm sóc cá
Tỉ lệ cho ăn 5% BW/ngày với tuần suất 2 lần/ngày đã làm tăng mức độ phân đàn của của cá. Tỉ lệ sống trung bình của cá ở nghiệm thức 3F*10%BW đạt cao nhất (95,0 %) nhưng chỉ khác biệt có ý nghĩa (P0,05) ngoại trừ nghiệm thức 2F*5%BW.
Từ kết quả của thí nghiệm trên cho thấy, khi tối ưu hóa các chỉ tiêu đánh giá, để cá có tốc độ tăng trưởng, tỉ lệ sống cao, hệ số phân đàn thấp, FCR thấp và số lần cho cá ăn nên chọn tỉ lệ cho ăn 10 % BW/ngày và số lần cho ăn 3 lần/ngày
Kết quả từ nghiên cứu góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất giống nhân tạo cá măng sữa cung cấp ra thị trường, giảm thiểu nguy cơ tuyệt chủng của giống loài này.
Nguồn: Trần Thị Kim Ngân, Nguyễn Đình Vinh, Tạ Thị Bình, Trần Đức Lương, Nguyễn Quang Huy (2021). Ảnh hưởng của tỷ lệ và tần suất cho ăn lên tăng trưởng, tỷ lệ sống, hệ số chuyển đổi thức ăn của cá măng sữa (Chanos chanos Forsskål, 1775) giai đoạn cá hương lên cá giống, Tạp chí Khoa học - Công nghệ thủy sản trường ĐH Nha Trang, số 01 - 2021 trang: 057-062.