“Tại thời điểm này, theo thống kê có chưa đến 20% doanh nghiệp chủ động bằng vốn thực lực của mình nuôi cá, 80% còn lại phải sử dụng qua nhiều kênh như tín chấp, vay ngân hàng. Nhưng hai nguồn này đều đóng băng hết rồi, trông chờ vào ngân hàng chỉ là một giải pháp vì ngân hàng nghe đến ngành cá tra là sợ mất vía rồi", ông Minh nói.
Cho phá sản 30%, cứu 50% nhà máy
Theo khảo sát của SGTT, ngay trong thời điểm này, số nhà máy chủ động bằng vốn thực lực nuôi cá, tạo ra nguyên liệu trong ngành cá tra có thể kể ra không quá 10 cái tên, còn lại phải dựa vào nguồn cá nuôi bên ngoài. Trong khi đó, nếu như năm 2011 trở về trước, sản lượng cá tra nguyên liệu phân bổ 70% nằm trong dân nuôi, 30% của doanh nghiệp, thì qua năm 2012, do giá cá nguyên liệu giảm, thua lỗ, cộng thêm tình hình tài chính khó khăn, nên tỷ lệ này đảo ngược lại. Để có cá sản xuất, doanh nghiệp phải bỏ vốn tự nuôi, nhưng có đến 80% số nhà máy hiện nay không đủ điều kiện vay vốn, bị ngân hàng kiểm soát chặt, không bơm vốn. Ông Úc Anh, một người cá tra ở cồn Tân Lộc, huyện Vĩnh Thạnh, Cần Thơ cho biết, trước đây gia đình ông tự bỏ vốn nuôi 5 hầm cá tra, sản lượng mỗi vụ lên đến cả ngàn tấn, nhưng mấy vụ gần đây không còn đủ sức nuôi nữa nên phải nuôi gia công cho công ty Sao Mai. Thế nhưng, vài tháng nay thi thoảng công ty giao thức ăn cũng bị đứt quảng, cá bỏ đói.
“Tình hình lúc này rất khó khăn, nhiều nhà máy thuê người dân nuôi gia công được một thời gian thì hết tiền đổ thức ăn. Cá bị bỏ đói, còn nhà máy với dân thì ôm nhau chết chùm”- ông Úc Anh nói.
Tình trạng xây ồ ạt nhà máy chế biến cá tra bắt đầu từ giai đoạn 2008-2009 bằng nguồn vốn từ gói hỗ trợ tín dụng của ngân hàng, nên ông Dương Ngọc Minh cho rằng, lúc này chỉ có ngân hàng mới giúp các nhà máy thoát khỏi khó khăn. Ông Minh thống kê trong ngành cá tra hiện nay được chia làm ba nhóm rõ rệt: nhóm A chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp hoạt động hiệu quả (khoảng 10 nhà máy), có thị trường xuất khẩu, có vùng nuôi riêng, không bị mất vốn và cũng cần phải được ngân hàng tiếp tục bơm tiền để làm đầu tàu để kéo cả thị trường. Nhóm B, chiếm khoảng 50% nhà máy cũng có thị trường, có vùng nuôi nhưng bị hụt vốn lưu động, nên ngân hàng phải xem lại tình hình sản xuất kinh doanh của họ để tìm cách tháo gỡ. Cách làm tốt nhất hiện nay, theo ông, là ngân hàng phải chủ động tái cơ cấu lại bằng cách chuyển nợ thành vốn góp cổ phần để tham gia trực tiếp vào quản lý nhà máy.
“Ngân hàng đã trót đầu tư vô đây rồi, muốn hoàn lại vốn thì phải tham gia tái cơ cấu mạnh, tiếp tục bơm vốn vào. Và chỉ khi nào ngân hàng là cổ đông thì mới có trách nhiệm với doanh nghiệp, biết nhà máy gặp khó khăn ở chổ nào để mà tìm cách tháo gỡ và kiểm soát đồng vốn tốt hơn” - ông Minh đề nghị.
Còn đối với nhóm C, số lượng trên 30% nhà máy, ông Mình khẳng định tình hình hiện nay không còn cách nào cứu được, nên buộc phải chấp nhận cho phá sản. Theo ông, hầu hết số nhà máy nhóm này ra đời bằng vốn kích cầu giai đoạn 2008-2009. Khi doanh nghiệp xây nhà máy xong, đi vào hoạt động thì gặp đúng vào thời điểm không còn chính sách hỗ trợ lãi suất, phải vay lãi cao cộng với tình hình kinh tế thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng, trong khi bản thân họ không có khách hàng, thị trường, chi phí đầu vào tăng, đầu ra cũng tăng, giá bán thì thấp nên bị vướng vào khó khăn. Thực tế, các nhà máy này gặp khó khăn từ hai ba năm nay, hiện lao động cũng đã tự tìm việc ở nhà máy khác nên việc cho phá sản, theo ông Minh cũng không gặp trở ngại gì lớn.
“Thật ra một số doanh nghiệp cá tra đã “chết” từ 2010 chứ không phải bây giờ mới “chết”. Năm đó doanh nghiệp phải mua giá nguyên liệu đầu vào lên tới 28.000-29.000 đồng/kg, nhưng bán ra có 3 USD đã lỗ ngay từ đó nên qua năm 2012 chỉ là cơ sở chín muồi để họ rơi vào khủng hoảng” - ông Minh nói thêm.
Chủ động nuôi cá bằng mọi nguồn lực
Mặc dù nêu giải pháp tái cơ cấu nhà máy, nhưng một số doanh nghiệp thừa nhận lúc này nếu có được ngân hàng bơm vốn thì trong ngắn hạn cũng không thể giải quyết tình hình thiếu cá nguyên liệu. Thời gian qua, do tình hình tín dụng bị thắt chặt nên lượng thức ăn đưa vào nuôi cá giảm khá mạnh. Nếu như năm ngoái, trung bình mỗi tháng nhà máy đưa ra thị trường khoảng 120 ngàn tấn thức ăn, thì nay chỉ còn 70-80 ngàn tấn. Hiện nay, ngoài dư nợ xấu ngân hàng, khoảng trên 9.000 tì (theo công bố ngân hàng Nhà nước), trong nội bộ ngành cá tra còn một khoản nợ dây chuyền khá lớn: nhà máy phải thanh toán nợ cho người nuôi cá, người nuôi cá lại nợ nhà máy thức ăn và các khoản khác...
“Diện tích thả mới là có, cá chưa đến lứa còn nhiều ở dưới ao nhưng chúng tôi đang gặp vấn đề lớn về vốn nên nhà máy không cung cấp thức ăn nữa”-giám đốc một doanh nghiệp xuất khẩu cá tra ở Cần Thơ thừa nhận.
Theo nhận định của Vasep, mặc dù tình hình kinh tế thế giới khó khăn, nhưng thị trường xuất khẩu cá tra trong năm 2013 vẫn ổn định. Đối với thị trường EU, mặc dù năm 2012 sản lượng xuất khẩu giảm, nhưng việc doanh nghiệp Việt Nam đạt chứng nhận nuôi trồng bền vững ASC, dự báo sẽ mở ra cơ hội xuất khẩu khả quan cho năm sau. Riêng đối với thị trường Mỹ, vừa qua cá tra Việt Nam xếp thứ 6/10 được ưa chuộng tại Mỹ nên tương lai có thể tăng sản lượng xuất khẩu vào thị trường này. Ông Trương Quang Đệ, tổng giám đốc công ty cổ phần thủy sản Việt Phú, Tiền Giang cho biết doanh nghiệp này chỉ bị hụt nguyên liệu cục bộ trong vài tuần đầu tháng 11.2012, từ đầu tháng 12 trở đi cá tự nuôi sẽ đáp ứng được công suất nhà máy. “Chúng tôi dự đoán thị trường xuất khẩu sẽ tốt trong năm sau nên đã chủ động mọi nguồn lực để đầu tư vào nuôi cá. Với diện tích nuôi sẳn có trong tay, Việt Phú hoàn toàn có thể chủ động nguyên liệu năm tới” - ông Đệ khẳng định như vậy.
Hiện nay, ngoài Hùng Vương có kế hoạch nuôi, chủ động nguyên liệu để có thể thu hồi 150 ngàn tấn cá tra từ tháng 12 đến tháng 6.2013, một số doanh nghiệp khác như Vĩnh Hoàn, Hùng Cá, Nam Việt, Việt An, Cửu Long cũng đầu tư vùng nuôi, tạo ra 70-80% sản lượng cho riêng mình. Tuy nhiên, số doanh nghiệp đầu đàn này khó có thể kéo cả ngành cá tra vực dậy nếu như ngân hàng không tham gia giải cứu khoảng 50% nhà máy còn lại.
“Tôi nghĩ tình hình hiện nay sẽ dẫn đến thực trạng số công nhân nghĩ việc hoặc làm việc không thường xuyên đến quý 1.2013 sẽ chiếm 40%. Vì muốn nói gì thì nói, cá nhiều hay ít phải cho ăn, mà thức ăn công nghiệp giảm 30% thì lấy đâu ra cá mà chế biến”-ông Minh dự báo thêm như vậy.