Báo động đỏ
Quỹ toàn cầu về phúc lợi động vật (IFAW) nhận định, internet là phương tiện; cung cấp cơ hội dường như vô tận cho hoạt động tội phạm buôn bán động vật hoang dã (ĐVHD). Buôn bán sản phẩm từ ĐVHD đã tập trung vào ngà voi và sản phẩm được làm từ bộ phận của voi; mật gấu; sừng tê giác và sản phẩm từ sừng tê giác; hổ sống, cao hổ, áo khoác da hổ báo; mai và mặt hàng trang sức được làm từ đồi mồi, rùa có nguy cơ tuyệt chủng; động vật linh trưởng, khỉ đột, tinh tinh; các loài bò sát, da và sản phẩm của những loài nguy cấp cần bảo vệ. Ngoài ra nhiều loài chim và trứng cũng đang bị đe dọa…
Báo cáo của Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) năm 2013 cho thấy, chỉ trong 2 tuần đã có hàng trăm sản phẩm buôn bán trị giá hàng triệu USD; riêng ba nước Anh, Pháp, Đức chiếm 15,2% tổng lượng buôn bán toàn cầu về các loài ĐVHD theo công ước quốc tế về buôn bán các loại động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES). Ở Việt Nam, kết quả điều tra của Hiệp hội Bảo tồn ĐVHD (WCS) năm 2012 đã chỉ ra, buôn bán sản phẩm ĐVHD là hiện tượng phổ biến trên internet với 23 loài cấm thuộc Nghị định 32 của Chính phủ và 22 loài theo công ước CITES. Phạm vi buôn bán ĐVHD trải rộng trên địa bàn cả nước, đặc biệt sôi động là Hà Nội (chiếm 15%) và TP Hồ Chí Minh (khoảng 24% thị phần cả nước). Sản phẩm buôn bán phổ biến là nhung hươu nai, mật gấu, ngà voi, sừng tê giác và sản phẩm từ da cá sấu… Trong số sản phẩm này, 61% dùng làm thuốc; thực phẩm chiếm 4%, dùng vào trang trí 9% và đồ dùng khoảng 22%.
Nhận diện về người mua và sử dụng sừng tê giác, trong báo cáo cuối tháng 7 năm 2013, tổ chức Mạng lưới giám sát hoạt động buôn bán thực, ĐVHD (TRAFFIC) đã chỉ ra: người mua thường là phụ nữ trung niên hoặc nhiều tuổi, có học thức và giàu có; phần đông mua cho người khác hoặc để biếu tặng; người sử dụng chủ yếu là đàn ông có tuổi thuộc lớp người giàu có; những người có ý định mua số đông ở độ tuổi trung niên, không giàu có như người mua, song vẫn thuộc tầng lớp khá giả. Đặc biệt, trong quan niệm xã hội, sở hữu sừng tê giác được cho là khẳng định vị thế và thể hiện sự tôn trọng đối với người được biếu tặng. Hầu như những người sở hữu sừng tê giác chỉ hiểu biết về tác dụng theo sự đồn đại và sẵn sàng quảng bá theo kinh nghiệm nhằm thể hiện địa vị của mình trong xã hội. Riêng về giá trị cốt lõi trong chữa trị các bệnh hiểm nghèo, họ nặng về cảm tính, theo sự đồn đại; tác dụng thần diệu của sừng tê giác mang tính trấn an tinh thần; chưa có những xác minh khoa học tin cậy được đề cập trong bất kỳ cuốn sách nào viết về việc chữa được bệnh ung thư.
Sừng tê giác được tầng lớp giàu có ở Việt Nam coi là vật quý hiếm, họ thèm muốn và săn lùng tạo ra nhu cầu sở hữu nhằm chữa những bệnh nan y, còn hầu hết tội phạm liên quan lại không sử dụng sừng tê giác để chữa những căn bệnh này. Từ nhu cầu ảo đó, người ta thường tìm đến những người có quan hệ với nơi có sừng tê giác như nhân viên ngoại giao, người buôn bán ĐVHD, thông qua các mối quan hệ trung gian không công khai; hiếm khi người mua gặp được người thực sự bán, đã tạo nên nhiều khó khăn thách thức trong quản lý ĐVHD.
Bảo tồn tê giác trong mối liên hệ giữa Việt Nam và Nam Phi
Trên thế giới, buôn bán sừng tê giác giữa Nam Phi và Việt Nam được coi là một trọng điểm với những đặc trưng mang tính toàn cầu. Nam Phi đã tham gia công ước CITES và đã trở thành nước thành công nhất về bảo tồn tê giác với tỷ lệ chiếm 83% số lượng còn lại của cả châu Phi và gần 3/4 trên toàn thế giới.
Vào năm 1994, CITES cho phép buôn bán tê giác sống và săn bắn tê giác trắng làm chiến lợi phẩm. Từ năm 1995 đến 2011, số tê giác được đấu giá và săn bắn khoảng từ 1.000 đến 1.300 con, chiếm 5-6% lượng tê giác trắng được bảo tồn. Có thể thấy, trong 35 năm săn bắn tê giác diễn ra ở Nam Phi không có dấu hiệu của lạm dụng, nhưng từ năm 2003 đã có những dấu hiệu bất thường do sự gia tăng đáng kể thợ săn phi truyền thống, đặc biệt đến từ Việt Nam (chiếm 48% trong tổng số 384 người vào tháng 5-2012). Những thợ săn này mở rộng săn bắn trộm khiến số lượng tê giác bị giết hại gia tăng đột biến. Theo M. Knight, số tê giác bị giết năm 2010 là 333 con, đến năm 2011 tăng lên 448 và theo ước tính năm 2012 khoảng 532 con (TRAFFIC 2012).
Buôn bán sừng tê giác ngoài luồng chủ yếu do những kẻ xuất khẩu bất hợp pháp gây ra. Số tê giác bị giết liên tục gia tăng đã thể hiện, cuộc khủng hoảng bảo tồn chưa từng có đã diễn ra cùng với việc sử dụng vũ khí chuyên dụng, máy bay trực thăng. Buôn bán sừng tê giác ở Nam Phi đã phát triển nhanh, trở thành hoạt động tinh vi theo luật riêng của các băng nhóm tội phạm. Trong số 43 vụ bắt giữ lớn người châu Á liên quan tới tội phạm tê giác ở Nam Phi, người Việt Nam chiếm tới 56%, tiếp đó là Trung Quốc 28%. Theo TRAFFIC, buôn bán trái phép sừng tê giác được thực hiện theo đường dây từ những tội phạm săn bắn trộm rồi qua hàng loạt trung gian là người mua, nhà xuất khẩu, người vận chuyển cả ở cấp địa phương và quốc tế để đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Việt Nam là một quốc gia có tê giác, đây từng là nơi cư trú của quần thể tê giác cực kỳ nguy cấp còn tồn tại trên lục địa châu Á là loài Java Rhinoceros sondaicuss annamiticus, nhưng con cuối cùng đã bị bắn chết. Tuyệt chủng tê giác là sự mất mát to lớn đa dạng sinh học và hoạt động buôn bán sừng tê giác ở Việt Nam đã chuyển sang một nguồn cung mới từ châu Phi, nơi những tội phạm tham gia buôn bán khá nhộn nhịp.
Theo số liệu của CITES, từ năm 2003 đến 2010, có 657 chiếc sừng tê giác xuất khẩu hợp pháp từ Nam Phi vào Việt Nam, song được ghi nhận nhập khẩu chỉ có 170, đồng nghĩa với 74% không được khai báo. Ngoài ra, mạng lưới buôn bán bất hợp pháp mỗi năm còn cung cấp hàng trăm chiếc sừng từ nhiều nguồn khác, bao gồm cả săn bắn trộm, trộm cắp và sừng trong những kho không đăng ký của khu vực tư nhân tại Nam Phi.
Thực tế đáng buồn trên cho thấy thị trường buôn bán bất hợp pháp sừng tê giác và ĐVHD ở nước ta phát triển nhanh, không chỉ dẫn đến tình trạng tuyệt chủng những loài động vật quý hiếm trong nước mà còn gây hệ lụy xấu đối với bảo tồn tê giác toàn cầu, đặc biệt là ở Nam Phi. Hệ thống luật pháp theo công ước quốc tế về bảo tồn động, thực vật hoang dã mà Việt Nam tham gia đã có những quy định nghiêm ngặt và chặt chẽ; hy vọng, các cơ quan thực thi thực hiện công tâm, xử phạt nặng những hành vi dù vô tình hay cố ý sai phạm. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể cứu vãn được nguy cơ tuyệt chủng cao của những động vật quý hiếm cần được bảo tồn trong sách đỏ Việt Nam.