Cần cải tạo ao kỹ trước vụ nuôi mới - Ảnh: Thanh Nhã
1. Trước khi thả giống
Cần cải tạo lại ao; bón vôi; xử lý nước trước khi đưa vào ao nuôi đúng theo quy trình kỹ thuật và lịch thời vụ của các cơ quan Chi cục Nuôi trồng Thủy sản, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư... đã khuyến cáo. Và thời gian cải tạo ao lại phải tối thiểu 30 ngày mới được thả nuôi tiếp.
Đối với những ao nuôi vụ trước đã bị dịch bệnh, nên đưa nước ngọt vào ngâm nhằm làm thay đổi môi trường trong ao nuôi, hạn chế được dịch bệnh, thời gian xử lý ao 15 - 20 ngày. Sau đó xử lý nước nuôi bằng Chlorin nồng độ 25 - 30 ppm (tức 25 - 30g/m3), thời gian xử lý sau 7 - 10 ngày mới được gây màu nước.
Theo dõi tình hình dịch bệnh trên địa bàn và các vùng nuôi lân cận, khi thấy ổn định mới được tiến hành thả giống.
Đối với những hộ nuôi tôm không đủ điều kiện kỹ thuật, kinh tế để tiếp tục nuôi tôm vụ 2 thì có thể thả một số đối tượng khác như cá rô phi đơn tính, cá vược, cá dìa... nhằm cải tạo môi trường, hạn chế được dịch bệnh trên tôm năm nuôi tiếp theo.
2. Thả giống
Chọn tôm giống có thương hiệu uy tín, nguồn gốc rõ ràng, trước khi thả nuôi phải được kiểm tra chất lượng và có giấy chứng nhận kiểm dịch.
Trước khi thả tôm cần kiểm tra các yếu tố môi trường như pH, độ kiềm, độ mặn... giữa trại giống và ao nuôi. Nếu có sự khác biệt phải điều chỉnh để tránh sốc cho đàn giống.
Tránh thả tôm khi trời nắng, nhiệt độ nước cao hoặc khi trời mưa. Nên thả giống mật độ thưa hơn chính vụ. Cụ thể 50 - 60 con/m2 đối với tôm thẻ chân trắng và 10 - 15 con/m2 đối với tôm sú.
3. Khi đã thả giống
Các hộ nuôi phải thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường nước trong ao nuôi. Chú ý đến các yếu tố hay bị biến động như nhiệt độ, ôxy, pH... để điều khiển các yếu tố này nằm trong khoảng thích hợp với tôm nuôi và khoảng dao động cho phép, không gây sốc đối với tôm.
Nếu kiểm tra thấy yếu tố pH giảm: Dùng vôi bột CaCO3 hoặc Dolomite để nâng pH liều lượng 20 - 30 kg/1.000m3 nước, nếu xuống quá thấp dùng vôi nung CaO, liều lượng: 15 - 2 kg/1.000m3. Trường hợp pH tăng: Tốt nhất là nên thay nước hoặc dùng đường, liều lượng 1,5 - 2 kg/1000 m3 nước.
Thực hiện các biện pháp ổn định nhiệt độ như nâng cao và duy trì mực nước trong ao nuôi từ 1,2 - 1,4m; hạn chế thay nước; rải vôi xung quanh bờ ao ngăn chặn các vật chủ trung gian từ bên ngoài vào ao nuôi.
Nên sử dụng chế phẩm sinh học, vôi nông nghiệp (CaCO3) hoặc vôi Dolomit (CaMg(CO3)2) làm ổn định môi trường nước với định kỳ: Dolomit + Canxi, liều lượng 300 - 400 kg/ha/tuần. Đồng thời bổ sung Vitamin C và khoáng chất vào thức ăn tăng sức đề kháng cho tôm nuôi.
Ngày nuôi thứ 40 nên tiến hành xi phông hoặc xả đáy. Ngày nuôi từ thứ 50 trở đi tiến hành dùng hoá chất khử các loại khí độc như NH3, CH4.
Tôm nuôi đạt kích cỡ 120 con/kg có thể tiến hành cấp thay nước. Nước cấp vào ao phải qua xử lý hóa chất Chlorin để đảm bảo chất lượng nước trong ao nuôi. Thay 15 - 20% lượng nước trong ao (Kiểm tra sức khoẻ con tôm trước khi thay và kiểm tra môi trường nước trước khi cho vào ao).
>> Các hộ nuôi cần theo dõi thông báo kết quả quan trắc môi trường của Chi cục Nuôi trồng Thuỷ sản và tình hình dịch bệnh tôm của các vùng lân cận để có biện pháp xử lý phòng bệnh kịp thời. Mặt khác, thường xuyên theo dõi diễn biến khí hậu, thời tiết để chủ động có các biện pháp can thiệp kịp thời sự biến động môi trường.