Mặt khác, nhu cầu thị trường cao đã đẩy giá dầu cá tăng cao và làm ảnh hưởng đến giá thức ăn cho tôm. Người ta đang nỗ lực tìm kiếm những nguồn chất béo khác nhằm thay thế cho dầu cá và dầu ấu trùng có thể là một giải pháp tiềm năng (Herawati et al 2020b; Fawole et al 2021).
Dầu ấu trùng có thể được lấy từ ấu trùng của ruồi lính đen Hermetia illucens. Dầu ấu trùng chứa EPA và DHA thích hợp cho sự phát triển. Nghiên cứu trước đây sử dụng dầu ấu trùng đã được thực hiện trên một số loài cá. Trong nghiên cứu của Xu và cộng sự (2020), sử dụng dầu ấu trùng ở cá rô phi (Oreochromis niloticus) với liều 25% có thể làm tăng tốc độ tăng trưởng (SGR) lên 2,27%. Hender và cộng sự (2021) đã tiến hành thay thế bột cá bằng dầu ấu trùng trong thức ăn của cá vược Lates calcalifer. Kết quả thu được là giá trị SGR là 6,98% và giá trị khối lượng tuyệt đối là 29,76 g, tốt hơn giá trị đối chứng. Nghiên cứu của Li và cộng sự (2016) giải thích rằng dầu ấu trùng ruồi BSF (ấu trùng) chứa nguồn chất béo tiềm năng có hàm lượng axit lauric cao (21,4-49,3%). Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có những thử nghiệm trên tôm. Vì vậy, nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Indonesia đã được thực hiện nhằm xác định hiệu quả và liều lượng tốt nhất của việc thay thế dầu cá bằng dầu ấu trùng trong khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng.
10 kg ấu trùng tươi ở giai đoạn tiền nhộng được chọn lọc và chần bằng nước ở nhiệt độ 80oC. Ấu trùng được thả vào lưới và ngâm trong nước có nhiệt độ 80oC. Quá trình ngâm được thực hiện trong 30 phút. Sau khi ngâm, ấu trùng được vớt ra, phơi khô và cho vào sấy ở nhiệt độ 100oC. 1 kg dầu được sản xuất từ 10 kg ấu trùng. Hàm lượng dinh dưỡng của dầu ấu trùng được sử dụng trong nghiên cứu này là: protein 30,09%, chất béo 33,67%, chất xơ thô 9,37%. Chất béo bao gồm axit lauric (C12) 58%, axit palmitic (C16) 9%, axit myristic (C14) 8%, omega 3 (ω3) 2,5%, omega 6 (ω6) 6%, omega 9 (ω9) 10%. Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này là phương pháp thực nghiệm được thiết kế hoàn toàn ngẫu nhiên (CRD) gồm 5 nghiệm thức và 3 lần lặp lại. Các nghiệm thức được thử nghiệm là: A (đối chứng), B (1% dầu ấu trùng), C (1,5% dầu ấu trùng), D (2% dầu ấu trùng), E (2,5% dầu ấu trùng) trên chế độ ăn 100 g. Thành phần khẩu phần được trình bày trong Bảng 1.
Tôm thẻ chân trắng có nguồn gốc từ trại giống BBPBAP Jepara có trọng lượng 0,13-0,14 g, dài 2-2,1 cm được sử dụng. Tôm thí nghiệm khỏe mạnh, bơi lội tích cực và không có vết thương nào trên cơ thể. Mật độ thảlà 15 con/bể. 15 bể chứa (15 L) và được trang bị hệ thống sục khí đã được sử dụng. Môi trường nuôi là nước biển có độ mặn 25-26 ppt được khử trùng bằng clo và trung hòa bằng natri thiosulfate. Độ mặn thích hợp để nuôi tôm thẻ chân trắng là 20-35 ppt (Rakhfid et al 2019). Việc cho ăn được thực hiện 4 lần mỗi ngày vào lúc 06:00, 10:00, 14:00 và 18:00, với thời gian duy trì là 42 ngày.
Bảng 1: Khẩu phần thí nghiệm và thành phần gần đúng của khẩu phần thí nghiệm
Bảng 2: Hàm lượng dinh dưỡng của thức ăn từ góc độ axit amin
Bảng 3: Thành phần axit béo của thức ăn sử dụng dầu ấu trùng (Hermetia illucens)
Hiệu suất tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng sau 42 ngày nuôi dưỡng được trình bày ở Bảng 4. Theo đó, tôm các nghiệm thức sử dụng dầu ấu trùng đều có các chỉ tiêu tăng trưởng cao hơn so với tôm ở nghiệm thức đối chứng. Đặc biệt, kết quả tăng trưởng cao nhất được thể hiện ở nghiệm thức C (1,5% dầu ấu trùng) (P < 0,05).
Bảng 4: Kết quả về hiệu suất tăng trưởng của tôm trong thí nghiệm
Phân tích cho thấy thành phần gần đúng nhất trong tôm là ở nghiệm thức C: 56,35% protein, 24,84% chất béo và 7,75% carbohydrate. Hàm lượng protein và chất béo thấp nhất ở nghiệm thức A: 48,19% protein và 19,98% chất béo. Bảng 5 cho thấy thành phần gần đúng của tôm sau 42 ngày thí nghiệm.
Bảng 5: Thành phần cơ thịt gần đúng của tôm thẻ chân trắng sau 42 ngày thí nghiệm
Dựa trên thành phần axit amin của tôm sau 42 ngày nuôi, hàm lượng lysine cao nhất ở tôm ở nghiệm thức C là 10,74%, trong khi thấp nhất ở tôm ở nghiệm thức A (6,9%). Hàm lượng axit amin của tôm thẻ chân trắng sau 42 ngày cho mỗi đợt điều trị được trình bày ở Bảng 6.
Bảng 6: Hàm lượng axit amin của tôm thẻ chân trắng sau 42 ngày thí nghiệm
Dựa trên thành phần axit béo của tôm sau 42 ngày nuôi, hàm lượng DHA cao nhất ở tôm ở nghiệm thức C là 8,75%, trong khi thấp nhất ở tôm ở nghiệm thức A (4,46%). Hàm lượng axit béo của tôm thẻ chân trắng ở mỗi nghiệm thức được trình bày ở Bảng 7.
Bảng 7: Hàm lượng axit béo của tôm thẻ chân trắng sau 42 ngày thí nghiệm