Quan trọng hơn cả, ngoài giá trị kinh tế cao, lúc nông nhàn, ngồi ngắm những đàn cá đủ màu sắc thi nhau bơi lượn, người nuôi cá cảm thấy vui vẻ, thư thái sau những giờ lao động căng thẳng, mệt nhọc.
Đường vào xã Mỹ Trung mùa này 2 bên vệ đường xanh mướt bởi những giàn mướp soi bóng xuống khu đầm bãi, ao hồ mênh mông. Làng xóm được ấp ôm bởi những dãy ao ngăn ô gọn gàng, trong mát. Cái nắng nóng đầu mùa oi ả, vì thế cũng được hạ nhiệt đi ít nhiều. Là một trong những người đầu tiên của xã chơi cá cảnh, biết mang con cá đi “giao thương”, anh Đồng được giới chơi cá cảnh xa gần trong huyện biết đến.
Trước năm 1998, trong một lần đến nhà người quen ở Thành phố Nam Định chơi, “Thấy họ nuôi cá cảnh trong bể đẹp quá, tôi thích lắm. Tôi lân la hỏi han cách nuôi, giống cá, giá cả… Cũng tình cờ thời gian đó tôi có dịp ra Hà Nội, ngang qua vài cửa hàng bán cá cảnh, tôi mạnh dạn vào hỏi mua, bắt mối buôn bán. Sau này, cũng chính những cửa hàng bán cá cảnh ở Hà Nội là mối hàng đầu tiên của tôi”, anh Đồng chia sẻ về mối “duyên” với nghề.
Nhận thấy, nuôi cá cảnh rất phù hợp với đồng đất quê nhà, sẵn ao, anh bắt tay ngay vào nuôi cá. Những năm đầu tiên, anh chọn giống cá vàng, sư tử, cá chép Nhật để nuôi. Một vài năm thấy hiệu quả kinh tế, anh động viên anh em, người thân quen nuôi. Anh sẵn sàng đầu tư cá giống cho những hộ trong làng, ngoài xã muốn nuôi cá cảnh. Anh còn tìm thêm mối để giúp bà con nuôi cá xuất bán, được giá, yên tâm về đầu ra. Hiện, anh Đồng có trên 1 mẫu ao, chia thành nhiều ao nuôi. Các loại cá mà anh nuôi gồm: chép Tầu, chép ta, cá Koi, cá sư tử, cá vàng… Khác với nhiều hộ nuôi cá cảnh khác, anh Đồng xây dựng ao nuôi theo mô hình khép kín: tự sản xuất con giống, nuôi cá thương phẩm bán ra thị trường. Ngoài ra anh còn là đầu mối cung cấp giống, thu mua cá thương phẩm cho các hộ nuôi cá cảnh trong làng. Nuôi các loại cá cảnh lâu năm, công đoạn khó nhất theo anh Đồng là việc sản xuất, chọn giống. Theo đó, người nuôi phải có kinh nghiệm, con mắt “nhìn cá” để chọn được những cặp cá giống tốt nhất. Những người nuôi cá có kinh nghiệm thường chọn các cặp cá đạt kích thước từ 3-4cm, cân đối đầu, đuôi, không bị dị tật, màu đẹp… làm giống. Khi đã chọn được, người nuôi chuyển con giống sang các ao nuôi riêng để có chế độ chăm sóc, phòng bệnh phù hợp. Một số bệnh mà cá cảnh hay mắc là thối mang, xuất huyết, cùn vây... Với mỗi loại, anh Đồng lại có cách phòng bệnh, thuốc chữa trị riêng, tránh lây lan, ảnh hưởng đến đàn. Các loại cá chép cảnh có thể sinh sản quanh năm nhưng mạnh nhất là vào các mùa xuân, hè và thu. Tháng 5, khi những cơn mưa rào đầu tiên xuất hiện, giống cá chép Nhật, chép Koi vào vụ sinh sản mới, đó cũng là những ngày bận rộn của gia đình anh. Thời điểm này đặc biệt quan trọng, do đó anh rất chú ý đến việc cho ăn, đảm bảo nước, oxi cho cá sinh trưởng và phát triển. Tùy theo tình hình thời tiết mà người nuôi tính toán cho cá ăn hợp lý. “Nếu thời tiết đẹp, tôi có thể cho cá ăn 2 lần/ngày. Nếu hôm nào “xấu trời”, không khí trong ao nồng, tôi cho ăn ít đi, trung bình 1 lần/ngày. Lý do là bởi lượng oxi trong nước thấp, cho ăn nhiều cá hô hấp kém, dễ bị ngạt dẫn đến cá chết”, anh Đồng cho biết.
Theo ước tính của anh Đồng, Mỹ Trung hiện có tới 70% hộ gia đình nuôi cá cảnh. Có một số hộ vừa nuôi cá cảnh, vừa nuôi cá thịt. Tuy nhiên, theo như nhiều người nuôi cá ở Mỹ Trung cho biết, nếu những năm trước đây, cá thịt chiếm ưu thế thì khoảng vài năm trở lại đây, người nuôi lại chuyển dần sang nuôi cá cảnh. Lý do là thị trường, giá cả của cá cảnh ổn định hơn cá thịt, cá cũng ít bị dịch bệnh hơn cá thịt. Cũng theo người nuôi cá cảnh ở Mỹ Trung, năm 2014 là thời điểm giá các loại cá chép cảnh như Koi, chép Nhật biến động, rớt đáy thấp nhất xuống còn khoảng 30 đến 40 nghìn đồng/kg. Từ năm 2015 đến nay, giá cá ổn định, thị trường rộng mở, vì vậy người nuôi yên tâm để đầu tư nuôi trồng. Hiện, cá vàng ở Mỹ Trung đang được bán dao động ở mức 4 đến 10 nghìn đồng/đôi, tùy trọng lượng to nhỏ. Cá chép Nhật được bán với giá 70 đến 100 nghìn đồng/kg. Cá Koi có mức giá 140 đến 200 nghìn đồng/kg. Thời điểm cao nhất có thể xuất bán được với giá 300 nghìn đồng/kg. Khác với cá thịt, cá cảnh có thời gian nuôi ngắn hơn, 2,5 tháng, trọng lượng vài lạng là có thể xuất bán. Đối với cá giống, mỗi năm người nuôi xuất được từ 2-3 lứa. Cá thương phẩm, do thời gian nuôi lâu hơn nên trung bình mỗi năm người nuôi xuất bán được từ 1-2 lứa. Cá cảnh ở Mỹ Trung hiện được bán ở khắp các tỉnh, thành phố phía Bắc, tuy nhiên thị trường tiêu thụ mạnh nhất vẫn là Thủ đô Hà Nội. Một số hộ nuôi nhiều trong xã có thể kể đến như hộ gia đình các anh, chị Thắng Hà, Hải Láu, Hiền Lương đều có vài mẫu ao, hằng năm xuất bán nhiều tấn cá cảnh. Những tháng giáp Tết là thời điểm bận rộn nhất của dân làng nghề. Xe cộ khắp nơi đổ về nhập cá, cảnh buôn bán tấp nập diễn ra từ đầu làng đến cuối xã. Những ngày này, anh Đồng có thể xuất bán từ 1-2 tạ cá/ngày. Ngày thường số lượng cá bán của anh cũng lên đến hàng yến. Thu nhập từ việc nuôi cá cảnh giúp đời sống người dân làng nghề dư dả hơn so với trước. “Theo tính toán của tôi, mỗi hộ gia đình nếu làm 1 mẫu ao nuôi cá cảnh mỗi năm thu nhập được khoảng 100 triệu đồng. Trừ chi phí giống, điện nước, thức ăn, thuốc phòng bệnh… cũng còn khoảng gần 70 triệu đồng tiền lãi. Số tiền này giúp những người nuôi cá có thêm chi phí trang trải cuộc sống, lo cho con cái học hành, sắm sanh nhà cửa. Con cá cảnh đang góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn Mỹ Trung”, anh Đồng phấn khởi cho biết. Năm 2017, trừ các khoản chi phí, gia đình anh Trần Trọng Đồng thu về trên 100 triệu đồng tiền lãi từ việc nuôi, kinh doanh cá cảnh.