Chị Nguyễn Thị Thu Giang, Trưởng phòng Kỹ thuật Thủy sản-TTKNLN cho biết, lươn đồng là loài thủy đặc sản nước ngọt có giá trị kinh tế cao, được thị trường ưa chuộng và tiêu thụ mạnh. từ 170 - 180 ngàn đồng/kg. Tuy nhiên, nguồn giống nuôi thương phẩm trên địa bàn tỉnh hiện nay còn hạn chế, chủ yếu nhập từ các tỉnh phía Nam, chất lượng không đảm bảo do vận chuyển đường xa, thời gian kéo dài. TTKNLN cử cán bộ đến Trà Vinh học tập kỹ thuật, kinh nghiệm từ mô hình sản xuất giống và nuôi lươn đồng. Sau 15 ngày học tập, nghiên cứu, cán bộ của trung tâm vào Cần Thơ mua giống lươn bố mẹ đưa về địa phương nuôi thử nghiệm.
Được sự hỗ trợ của Dự án Sáng kiến và Phát triển địa phương thích ứng biến đổi khí hậu với kinh phí hơn 51 triệu đồng, TTKNLN triển khai mô hình sản xuất thí điểm giống lươn đồng. Ông Lê Công Long ở thôn Phú Lương B, xã Quảng An (Quảng Điền) rất phấn khởi khi được TTKNLN và chính quyền địa phương chọn làm thí điểm mô hình sản xuất giống lươn đồng tại vườn nhà.
Tại hộ ông Lê Công Long được xây dựng hai bể nuôi lươn bố mẹ rộng 30 m2/bể, mật độ thả nuôi vỗ 10 con/m2, trọng lượng mỗi con từ 100 - 150g. Sau ba tháng nuôi vỗ, lươn đẻ trứng, sinh sản. Ông Long chia sẻ: “Khâu quan trọng là phải biết xây dựng bể lót bạt, xung quanh dùng bao đựng đất để đắp nhằm bảo vệ bể nuôi và thuận tiện cho việc chăm sóc. Khung bể dùng cây tre làm trụ, đáy bể phải nén kỹ và lót bạt giữ nước và đất. Quanh bể có hệ thống cấp, thoát nước và phun mưa; có hệ thống mái che mát và giảm độ ánh sáng cho bể nuôi. Các khâu quản lý, chăm sóc trứng, cũng như ương lươn bột lên giống cũng khá đơn giản…”.
Theo ông Lê Công Long, nguồn thức ăn cho lươn cũng rất phong phú, dễ tìm kiếm và sản xuất được. Giai đoạn nuôi vỗ, sinh sản, thức ăn cho lươn là cá tạp, ốc bươu vàng và thức ăn công nghiệp. Từ 10 - 30 ngày tuổi, thức ăn chính cho lươn giống từ bột lên hương là moinam, trùn chỉ. Khi lươn đạt kích cỡ 10 - 15cm, trọng lượng 3 - 5g/con thì chuyển sang ương trong bể ngoài trời và thức ăn chính là cá tạp, kết hợp với thức ăn công nghiệp…
Cùng với hộ ông Long, TTKNLN hỗ trợ xây dựng mô hình tại gia đình ông Nguyễn Văn Đặng ở thôn 1, xã Vinh Hà (Phú Vang) với diện tích và mật độ thả giống tương tự. Lươn bố mẹ phát triển rất tốt và sinh sản đúng với quy trình sản xuất, thời gian quy định. Ông Nguyễn Thanh Tuấn, cán bộ TTKNLN, người hướng dẫn kỹ thuật, theo dõi mô hình cho rằng, các hộ nuôi nắm bắt khá tốt các quy trình kỹ thuật nuôi lươn đồng. Người dân thường xuyên theo dõi trứng, thay nước và loại bỏ trứng ung, không để ô nhiễm nguồn nước và làm hỏng các trứng khác. Mặc dù lần đầu tiên sản xuất giống lươn đồng bằng phương pháp bán nhân tạo, người dân chưa có nhiều kinh nghiệm, nhưng tỷ lệ trứng nở lươn bột đợt đầu tiên đạt 55%, đợt hai khá cao từ 80 - 85%, tương ứng với gần 6.000 con. Từ lươn bột, ương nuôi lên lươn hương, đến lươn giống đạt hơn 2.500 con.
Trên cơ sở nguồn giống được sản xuất, cán bộ khuyến nông sẽ tuyển chọn những con giống chất lượng tốt để nuôi, vỗ lên thành giống bố mẹ sinh sản. Một vài năm đến, nguồn giống lươn đồng sẽ đảm bảo cung ứng nhu cầu sản xuất của người dân trên địa bàn tỉnh.
Anh Châu Ngọc Phi, Phó Giám đốc TTKNLN đánh giá, mô hình nuôi lươn đồng nông hộ phù hợp với điều kiện tự nhiên ở Thừa Thiên Huế. Kinh phí đầu tư, kỹ thuật nuôi lươn đồng không quá cao như nhiều đối tượng thủy sản khác, không chiếm nhiều diện tích nên phù hợp với trình độ, điều kiện kinh tế và đất đai vườn nhà của nhiều hộ dân... TTKNLN tiếp tục cử cán bộ thường xuyên về cơ sở, theo dõi, hướng dẫn các hộ dân chăm sóc lươn bố mẹ, sản xuất giống và nuôi thương phẩm.