Tiềm năng nuôi hải sản trên biển của Việt Nam

Tiềm năng nuôi hải sản trên biển của Việt Nam là không nhỏ nhưng chưa khai thác được mấy. Vì vậy, nuôi biển là hướng đi quan trọng cho ngành thủy sản Việt Nam, cần được đẩy mạnh phát triển trong những năm tới.

Tiềm năng nuôi hải sản trên biển của Việt Nam
Nuôi trồng thủy sản ở Đảo Lý Sơn. Ảnh: Internet

Tiềm năng lớn cho nuôi trồng thủy sản trên biển

Theo Tổng cục Thủy sản, nước ta có tiềm năng lớn về nuôi biển. Diện tích có khả năng sử dụng phát triển nuôi biển bao gồm các vùng vịnh kín, bãi triều ven biển và một phần ở các hải đảo, vùng biển hở.

nuôi trồng thủy sản, nuôi thủy sản biển, nuôi trồng thủy sản biển, nuôi tôm, nuôi cá, nuôi nhuyễn thể, tiềm năng nuôi trồng thủy sản

Nuôi cá trên biển Kiên Giang

Tổng diện tích tiềm năng nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo của nước ta khoảng 244.190ha. Trong đó, diện tích nuôi vùng bãi triều ven biển 153.300ha (chiếm 62% diện tích có khả năng nuôi biển); diện tích nuôi vùng vũng, vịnh, eo ngách và ven đảo là 79.790ha (33%); nuôi vùng biển hở 11.100ha (5%).

Mặc dù nuôi biển liên tục phát triển trong những năm qua, nhưng diện tích đã nuôi còn khiêm tốn. Đến năm 2015, diện tích nuôi biển cả nước mới đạt 40.102ha, sản lượng 308.587 tấn (nhuyễn thể 269.161 tấn; cá biển khoảng 30.000 tấn; tôm hùm 1.500 tấn…). Như vậy, tiềm năng để đẩy mạnh, phát triển nuôi biển còn lớn.

5 đối tượng nuôi biển chính hiện nay là cá biển, nhuyễn thể, tôm hùm, cua ghẹ và rong biển. Năm 2016, diện tích cá biển nuôi ao/đầm đạt 6.300ha và 1.164.643m3 lồng, sản lượng 28.293 tấn. Các loài cá nuôi phổ biến nhất là cá song (chiếm xấp xỉ 50%), cá giò (30%) và cá vược (7 - 8%).

Nhuyễn thể đang được nuôi trên diện tích 47.129ha (năm 2016), chủ yếu là nuôi bãi, sản lượng 294.472 tấn. Các đối tượng nuôi chủ yếu là nghêu Bến Tre, ngao đầu, ngao vân, vẹm xanh, ốc hương, sò huyết, sò lông, tu hài, hàu cửa sông, hàu Thái Bình Dương… Ngao/nghêu chủ yếu nuôi ở các tỉnh phía Bắc, Bắc Trung bộ và Nam bộ; sò lông, sò huyết nuôi ở hầu hết các tỉnh ven biển, nhưng tập trung nhiều ở Kiên Giang và Vịnh Bắc Bộ; hàu được nuôi nhiều ở vùng cửa sông các tỉnh, TP như Quảng Ninh, Hải Phòng, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, Khánh Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu…

Đến năm 2016, đã có 58.990 lồng nuôi tôm hùm, với sản lượng đạt hơn 1.300 tấn. Còn cua, ghẹ được nuôi ghép với các loài khác nên diện tích tính chung khá lớn, lên tới hơn 220 ngàn ha, sản lượng khoảng 40.000 tấn/năm. Rong biển được trồng chủ yếu ở khu vực biển Nam Trung bộ, với diện tích 10.150ha, sản lượng 101.000 tấn. 

Thị trường rộng mở

Sản phẩm từ nuôi biển đã tham gia vào XK thủy sản từ nhiều năm nay. Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký VASEP, cho biết, cá nuôi biển đã được XK sang 50 thị trường như Mỹ, Úc, Hồng Kông, Đức, Nhật Bản, Hà Lan, Trung Quốc…, với tổng giá trị trên 35 triệu USD năm 2015. Cá chẽm, cá mú, cá chim và cá cam là 4 loại cá nuôi được XK nhiều nhất, chủ yếu dưới dạng cá tươi và đông lạnh. Trong đó, XK cá chẽm đang có xu hướng tăng trưởng mạnh và ổn định, cá chim được XK nhiều sang các nước châu Á và Trung Đông, cá mú XK nhiều sang Hồng Kông, Singapore, Mỹ và một số nước châu Âu.

XK nhuyễn thể 2 mảnh vỏ (chủ yếu từ sản phẩm nuôi) trong những năm gần đây cũng đang tăng trưởng khả quan với danh số trên dưới 80 triệu USD/năm (6 tháng đầu năm 2017, XK nhuyễn thể 2 mảnh vỏ đạt 50,5 triệu USD; tăng 23,6% so cùng kỳ 2016). Nghêu và sò điệp là sản phẩm chế biến XK chủ lực, chiếm 70%. Thị trường chính của nhuyễn thể 2 mảnh vỏ là EU, Nhật Bản, Mỹ… Tại các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Italia, Việt Nam đang là nhà cung cấp số 1 về sò điệp chế biến và là nhà cung cấp số 2 ở Nhật Bản, Mỹ.

Giá trị XK cua ghẹ hiện vào khoảng 110 - 130 triệu USD/năm, với 3 thị trường chính là Mỹ, Nhật Bản và EU (chiếm gần 87% tổng giá trị XK). Ngoài ra, XK các loại ốc nuôi (ốc hương, ốc gạo, ốc len, ốc cà na…) cũng đã thu về 4,6 triệu USD…

Điều đáng chú ý là nhu cầu NK của phần lớn các mặt hàng hải sản đã nuôi nói trên vẫn đang tăng lên. Ông Hòe cho hay, nhu cầu cá biển tại các thị trường Mỹ, Úc… vẫn cao. Việt Nam đang có ưu thế về sản phẩm nghêu, sò điệp chế biến tại các thị trường châu Âu. Đồng thời có thể đẩy mạnh XK cua ghẹ sang thị thị trường Mỹ, duy trì ổn định tại các thị trường châu Á.

Còn theo ông Matt Brooker, GĐ Phát triển Kinh doanh của Cty Fishin (nhà cung cấp hải sản hàng đầu ở Mỹ), hiện nay, tiêu thụ cá đánh bắt ở Mỹ đang nhỉnh hơn một chút so với cá nuôi (51% so với 49%), nhưng đến năm 2030, tiêu thụ cá đánh bắt chỉ còn 38%, trong khi cá nuôi tăng lên 62%. Một trong những nguyên nhân quan trọng giúp cho việc tiêu thụ cá nuôi đang ngày càng tăng lên là các nhà bán lẻ rất lo ngại việc bị thiếu hụt nguồn hàng, mà cá đánh bắt không thể đảm bảo được tính ổn định của nguồn hàng do ảnh hưởng của mùa vụ, thu hoạch. Nguồn cung không ổn định cũng khiến cho cá đánh bắt thường biến động lớn về giá cả, gây khó khăn cho nhà kinh doanh. Vì vậy, các nhà bán lẻ đang có xu hướng tìm kiếm nguồn cung và giá cả tương đối ổn định ở các sản phẩm nuôi. 

Gần 5 triệu tấn vào năm 2030?

Như đã nói ở trên, do diện tích nuôi biển ở nước ta còn khiêm tốn so với tiềm năng, nên sản lượng nuôi biển đến năm 2016 mới đạt xấp xỉ 300.000 tấn. Vì vậy, để thúc đẩy, phát triển nghề nuôi biển, Hiệp hội nuôi biển Việt Nam đã đề ra chiến lược khởi nghiệp nuôi biển.

Cụ thể: Phát triển nuôi biển quy mô lớn với công nghệ tiên tiến, thân thiện với sinh thái và môi trường biển, đảm bảo phát triển bền vững; phát triển đồng thời nuôi trên biển và nuôi cá biển trên đất liền; phát triển chuỗi giá trị hoàn thiện cho các sản phẩm nuôi biển, từ con giống đến thực phẩm tiêu dùng; phát triển thị trường XK và nội địa; liên kết chặt chẽ giữa DN và các đơn vị nghiên cứu - phát triển… Theo TS Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội nuôi biển Việt Nam, mục tiêu là đến 2020 sẽ đưa sản lượng nuôi biển lên 4,7 triệu tấn vào 2030.

Cái cần ở Việt Nam hiện nay là một kế hoạch phát triển nghề nuôi biển ở tầm quốc gia và những chính sách khuyến khích nuôi biển, thu hút vốn đầu tư vào nuôi biển. Bên cạnh đó là việc khắc phục những yếu kém, hạn chế trong các khâu sản xuất giống, thức ăn, thuốc thú y phục vụ nuôi cá biển…

Xu hướng của thế giới

Nuôi hải sản trên biển đang là xu hướng phát triển chung trên thế giới. So với chăn nuôi động vật trên cạn, nuôi thủy sản nói chung được đánh giá cao hơn nhiều về hiệu quả kinh tế, môi trường… Về kinh tế, nuôi thủy sản có năng suất cao hơn so với nuôi gia súc, gia cầm, nhờ hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp hơn. Về môi trường, nuôi thủy sản không gây tác hại nhiều tới môi trường như gia súc, gia cầm…

Chính vì vậy, phát triển nuôi trồng thủy sản đang là xu hướng chung trên toàn cầu nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm trong bối cảnh dân số thế giới đang tăng lên và có thể đạt 9 tỷ người vào năm 2050. Tuy nhiên, nguồn nước ngọt và đất đai canh tác đang có xu hướng thu hẹp lại. Do đó, nuôi hải sản trên biển đang được nhiều quốc gia đẩy mạnh. Việc phát triển nuôi hải sản trên biển còn góp phần quan trọng làm giảm tình trạng khai thác quá mức nhiều loài hải sản trong tự nhiên.

Đến năm 2015, diện tích biển đã được sử dụng để sản xuất thực phẩm trên thế giới mới chỉ chiếm 0,04% tổng diện tích bề mặt đại dương toàn cầu. Vì vậy, tiềm năng phát triển nuôi biển còn rất lớn. Kể cả khi mở rộng diện tích gấp 20 lần so với hiện nay, diện tích nuôi biển vẫn chưa chiếm tới 1% tổng diện tích đại dương.

Theo số liệu của FAO, năm 2014, sản lượng nuôi biển (tôm, cá, nhuyễn thể…) của thế giới đạt khoảng 26,7 triệu tấn, còn sản lượng rong biển là 27,2 triệu tấn. Trong vòng 30 năm, từ 1985 - 2014, nuôi biển trên toàn cầu đã tăng 44%. Hiện nay đã có 116 nước có hoạt động nuôi biển, với 526 loài được nuôi.

Theo các chuyên gia thủy sản, hiện nay, trên thế giới, đã có nhiều công nghệ lồng, bè có khả năng chịu sóng gió, giúp cho nuôi giảm thiểu rủi ro bởi thiên tai để nuôi biển đạt hiệu quả cao. Thậm chí đã có cả công nghệ để nuôi cá biển trên đất liền. Công nghệ sản xuất thức ăn phù hợp với nuôi biển cũng đã có. Những công nghệ này có thể nhập khẩu và áp dụng vào sản xuất ở Việt Nam.

NNVN
Đăng ngày 31/08/2017
Thanh Sơn
Nuôi trồng

FLOCponics: Sự tích hợp hoàn hảo của công nghệ biofloc và cây thủy canh

FLOCponics là một loại Aquaponics thay thế tích hợp công nghệ biofloc (BFT) với sản xuất cây trồng không sử dụng đất.

flocponics
• 15:51 07/03/2022

Mô hình nuôi ba ba lãi 300 triệu đồng/năm

Mô hình nuôi ba ba của ông Lương Thành Kỷ, ở thị trấn Búng Tàu, huyện Phụng Hiệp. Qua 14 năm phát triển, đến nay đàn ba ba sinh sản của ông Kỷ đã phát triển hơn 1.500 con, mỗi năm xuất bán ra thị trường từ 8.000-10.000 con giống, trừ hết các khoản chi phí, lợi nhuận gần 300 triệu đồng/năm.

Ba ba.
• 09:38 14/06/2021

Kinh tế ổn định nhờ nuôi ba ba sinh sản

Hơn 20 năm nuôi ba ba sinh sản, anh Nguyễn Đức Lợi, ấp Phước Thọ B, xã Mỹ Phước, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng có cuộc sống khấm khá. Gắn bó lâu năm với con ba ba một phần cũng vì sự yêu thích loài vật này, ba ba lại dễ nuôi, nhẹ công chăm sóc, thị trường tiêu thụ tốt, đem lại nguồn thu nhập ổn định cho gia đình anh.

• 15:40 03/03/2021

Thu trăm triệu đồng mỗi năm từ nuôi ba ba

Nuôi ba ba gai là một công việc đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn và kỹ thuật cao. Nhưng bằng ý chí, nghị lực, sự đam mê tận tụy với công việc cùng với áp dụng các kiến thức khoa học kỹ thuật mà ông Phạm Tất Đạt ở xã Yên Bình, thành phố Tam Điệp đã thành công, vươn lên trở thành triệu phú.

kỹ thuật sản xuất giống baba
• 10:00 30/05/2017

Vấn đề thức ăn và sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản

Cuối tháng 11/2025, tại thành phố Hồ Chí Minh có hội nghị quản lý thức ăn và sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản cho biết một số vấn đề đáng quan tâm.

Ao tôm
• 09:00 08/12/2025

Kinh tế tuần hoàn nuôi trồng thủy sản là đổi mới sáng tạo

Phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh là mục tiêu bao trùm hiện nay và đó là quá trình đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ để chuyển đổi mô hình.

Mô hình nuôi tôm
• 09:00 05/12/2025

Công thức cải thiện FCR nuôi tôm: Bí quyết nằm ở kỹ thuật cho ăn

Chi phí thức ăn thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vụ nuôi, có thể lên tới 60%. Việc tôm ăn nhiều nhưng chậm lớn dẫn đến hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận. Vấn đề này thường xuất phát từ việc quản lý cho ăn chưa sát với nhu cầu thực tế của tôm trong từng thời điểm.

Nhá tôm ăn
• 12:35 04/12/2025

Tại sao tôm bị mềm vỏ sau mưa?

Những cơn mưa lớn kéo dài thường là nỗi ám ảnh với người nuôi tôm, kéo theo sự biến động môi trường khốc liệt.

Tôm thẻ
• 13:30 03/12/2025

Xu hướng mukbang hải sản khổng lồ: Tò mò thị giác hay trào lưu gây lo ngại?

Trong vài năm gần đây, các video mukbang hải sản kích thước lớn xuất hiện dày đặc trên nền tảng mạng xã hội. Nội dung thường xoay quanh các mâm hải sản nhiều món, gồm bạch tuộc nguyên con, tôm hùm hoặc nghêu, sò với số lượng lớn.

Bạch tuộc
• 06:11 08/12/2025

Nhìn lại xuất khẩu thủy sản 10 tháng đạt 9,5 tỷ USD, tôm hùm và cá rô phi là điểm sáng

Dù đối mặt với nhiều biến động, đặc biệt là từ thị trường Mỹ, xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2025 vẫn ghi nhận kết quả tích cực, đạt hơn 9,5 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ. Trong bức tranh chung, tôm hùm, cá rô phi, chả cá và surimi nổi lên như những điểm sáng tăng trưởng ấn tượng.

Tôm sú
• 06:11 08/12/2025

Xu hướng từ rong sụn từng làm mưa làm bão tại thị trường Việt Nam

Rong sụn là thành phần chủ yếu cấu tạo nên Sea Moss Gel, sản phẩm được nhiều người tìm mua nhờ những lợi ích hỗ trợ sức khỏe mà nó mang lại.

Rong sụn
• 06:11 08/12/2025

Nếu cá mập ngừng bơi đồng nghĩa chúng sẽ không còn sống?

Cá mập, vị vua tối thượng của đại dương, biểu tượng của sức mạnh tuyệt đối và tốc độ. Tuy nhiên, đằng sau vẻ ngoài uy quyền ấy là một sự thật khắc nghiệt: Đối với nhiều loài, việc ngừng bơi đồng nghĩa với cái chết.

Cá mập
• 06:11 08/12/2025

Rùa biển trong sách đỏ sa vào lưới ngư dân Đà Nẵng

Một cá thể đồi mồi dứa nặng khoảng 17kg, thuộc loài nguy cấp trong Sách đỏ Việt Nam, vừa được một ngư dân tại Đà Nẵng tự nguyện bàn giao sau khi vô tình mắc vào lưới. Lực lượng chức năng sau đó đã phối hợp thả cá thể rùa biển này trở về môi trường tự nhiên an toàn.

Rùa biển
• 06:11 08/12/2025
Some text some message..