Hàu Thái Bình Dương (TBD) Crassostrea gigas là loài nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao, thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng và có tốc độ sinh trưởng nhanh, chỉ sau 8 tháng nuôi hàu đã đạt kích thước thương phẩm. Đến nay, hàu TBD đã trở thành một trong những đối tượng nuôi chính trong các loài động vật thân mềm. Thịt hàu có giá trị dinh dưỡng cao với protein 45 - 75%, lipid 7 - 11%, giàu acid béo không no và acid amin không thay thế, giàu vitamin và khoáng chất. Hàu đã và đang được sử dụng như là một loại thực phẩm bổ sung dinh dưỡng cần thiết, giúp phát triển chiều cao và tăng cường sinh lực cho nam giới... Ngoài ra, nuôi hàu còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết ô nhiễm môi trường nước nhờ đặc tính ăn lọc các chất hữu cơ của loài động vật thân mềm này.
Ở Việt Nam, ngay từ khi nhập về nuôi thử nghiệm, hàu Thái Bình Dương đã nhanh chóng thích ứng với điều kiện nuôi ở các vùng nước lợ mặn, đặc biệt là khu vực miền Bắc và Trung nước ta. Do hàu Thái Bình Dương không phải là loài bản địa nên việc nuôi thương phẩm hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn giống nhân tạo. Để sản xuất giống nhân tạo tại chỗ, chủ động con giống có chất lượng đáp ứng nhu cầu nuôi thương phẩm, ngoài chất lượng trứng thì chất lượng tinh trùng đưa vào sinh sản nhân tạo cũng phải cao. Hoạt lực tinh trùng là thông số cơ bản để đánh giá được chất lượng và khả năng thụ tinh của tinh trùng hàu TBD.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng như: mùa vụ sinh sản, thời điểm thu mẫu, nhiệt độ, thức ăn... Hoạt lực tinh trùng cũng bị ảnh hưởng bởi một vài yếu tố trong môi trường hoạt động của chúng như tỉ lệ pha loãng, áp suất thẩm thấu và nồng độ các cation (Na+, Ca²+, K+, Mg²+). Những nghiên cứu tương tự đã được thực hiện trên rất nhiều đối tượng cá biển như cá đù vàng (Larimichthys polyactis), cá bơn Đại Tây Dương … Tuy nhiên, báo cáo về ảnh hưởng của tỉ lệ pha loãng, áp suất thẩm thấu và các cation lên hoạt lực tinh trùng động vật thân mềm cũng như hàu TBD còn rất hạn chế.
Vì vậy, nghiên cứu “Ảnh hưởng tỉ lệ pha loãng, áp suất thẩm thấu và các cation lên hoạt lực tinh trùng hàu Thái Bình Dương” được thực hiện góp phần đóng góp những thông tin hữu ích cho bảo quản lạnh tinh trùng và cải thiện môi trường thụ tinh nhân tạo loài này tốt hơn.
Nghiên cứu sinh sản nhân tạo Thái Bình Dương
Tinh trùng hàu Thái Bình Dương được pha loãng ở các tỉ lệ 1:50, 1:100, 1:150 và 1:200 (tinh dịch: nước biển nhân tạo) để xác định tỉ lệ pha loãng cho hoạt lực tinh trùng tốt nhất. Sau đó, tỉ lệ pha loãng này được sử dụng cho các thí nghiệm áp suất thẩm thấu (nồng độ 300, 400, 500, 600 mOsm/kg) và để xác định ảnh hưởng của nồng độ cation lên hoạt lực của tinh trùng hàu , thí nghiệm sử dụng bốn loại cation ở những nồng độ khác nhau Na+, Ca²+, K+, Mg²+ (nồng độ 0,2; 0,4; 0,6; 0,8M).
Thử nghiệm cho thụ tinh nhân tạo hàu Thái Bình Dương Trứng, tinh trùng của một con cái và một con đực thành thục nhất được cho vào lần lượt bốn môi trường nước khác nhau bao gồm nước biển nhân tạo, nước biển tự nhiên đã xử lý sạch, dung dịch có ASTT tối ưu nhất và dung dịch chứa cation tốt nhất. Sau 2 – 3 giờ tiến hành kiểm tra tỉ lệ thụ tinh (ở thời điểm này nếu trứng được thụ tinh thì tế bào có sự phân chia rõ ràng).
Kết quả
Tỉ lệ thụ tinh đạt cao nhất khi thụ tinh trong môi trường nước biển nhân tạo, tiếp theo môi trường nước biển tự nhiên đã xử lý, sau đó là dung dịch có áp suất thẩm thấu 500mOsm/kg và thấp nhất ở dung dịch cation Na+ 0,4M với kết quả lần lượt là 75,77±5,26%; 71,78±3,25%; 49,94±2,12%; 35,8±5,27%.
Tinh trùng hàu TBD pha loãng ở tỉ lệ 1:200 (tinh dịch: nước biển nhân tạo) cho kết quả tốt nhất về phần trăm hoạt lực (90 ± 5%) và thời gian hoạt lực (11.460 ± 1.350,99s).
Nồng độ thẩm thấu tối ưu cho hoạt lực của tinh trùng hàu TBD là 500 mOsm/kg với phần trăm và thời gian hoạt lực lần lượt là 82,33 ± 4,51%, 8.580 ± 519,61s.
Tinh trùng hàu TBD hoạt lực tối ưu ở nồng độ Na+ = 0,4M (với thời gian hoạt lực là 8.400 ± 216,33s và có 52,67 ± 11,02% tinh trùng hoạt lực); K+ = 0,4M (8.080 ± 1.437,92s và 46,33 ± 21,36%). Trong các nồng độ Ca²+ thí nghiệm, ở nồng độ 0,2M tinh trùng có hoạt cao nhất nhưng chỉ có 9 ± 6,56% phần trăm tinh trùng hoạt động và thời gian hoạt lực là 5.820 ± 216,33s. Tinh trùng hàu TBD bị bất hoạt ở tất cả các nồng độ Mg²+ thí nghiệm. Thụ tinh nhân tạo hàu TBD đạt kết quả tốt nhất khi thực hiện trong nước biển nhân tạo, với tỉ lệ thụ tinh đạt 75,77 ± 5,26%.
Báo cáo cung cấp thông tin cơ sở góp phần ứng dụng quy trình công nghệ đã nghiên cứu cho người nuôi. Đồng thời, cần nghiên cứu về mật độ ương nuôi các giai đoạn ấu trùng nhằm nâng cao hơn nữa tỷ lệ sống của hàu Thái Bình Dương.