Tyramine trong thức ăn của tôm thẻ chân trắng

Sự giải phóng các amin sinh học là phản ứng chính đối với tình trạng stress ở cả động vật có xương sống và động vật không xương sống. Amin sinh học là những chất có một hoặc nhiều nhóm amin được tạo ra ở vi sinh vật, thực vật và động vật thông qua quá trình khử carboxyl của axit amin, amin hóa aldehyd và xeton, chuyển hóa hoặc tổng hợp trao đổi chất khác.

Thức ăn tôm
Nguyên liệu có trong thức ăn ảnh hưởng đến quá trình phát triển của tôm

Ở động vật giáp xác, các amin sinh học hoạt động như chất dẫn truyền thần kinh, chất điều hòa thần kinh và hormone thần kinh (Kuo và cộng sự, 2022a). Tyramine là một amin sinh học được tạo ra khi phân hủy tyrosine.  

Các nghiên cứu trước đó đã chứng minh rằng con đường sinh tổng hợp các amin sinh học ở tôm thẻ chân trắng được chia thành hai con đường, và cả hai đều có tyrosine (TR) là tiền chất. Một con đường là TR → tyramine (TA) → octopamine (OA) và được tổng hợp bởi tyrosine decarboxylase (TDC) và tyramine beta-hydroxylase (TBH). Quá trình sinh tổng hợp OA và TA bao gồm các quá trình enzyme: trước hết, quá trình khử carboxyl của TR thành TA được xúc tác bởi TDC; thứ hai, quá trình hydroxyl hóa TA thành OA được tạo điều kiện thuận lợi bởi TBH. Trong con đường tổng hợp octopamine của tôm, OA và TA được công nhận có vai trò điều hòa các phản ứng miễn dịch và khả năng kháng bệnh. Các enzyme TDC và TBH của tôm đã được nhân bản và định tính.

Sự tham gia của chúng đã được chứng minh không chỉ trong việc điều hòa tổng hợp octopaminergic mà còn trong các phản ứng sinh lý và miễn dịch. Nghiên cứu gần nhất của Hsin-Wei Kuo và cs (2023) kiểm tra (1) năng suất tăng trưởng, (2) các thông số miễn dịch, (3) khả năng kháng lại V. aliginolyticus và (4) các yếu tố sinh lý sau khi sử dụng TA trong khẩu phần ăn. Bốn nghiệm thức, bao gồm chế độ ăn cơ bản (BD), chế độ ăn TA 10 mg/kg (TA10), chế độ ăn TA 50 mg/kg (TA50) và chế độ ăn TA 100 mg/kg (TA100), đã được sử dụng (Bảng 1).  

Bảng 1

Bảng 1Bảng 1. Thành phần của chế độ ăn cơ bản (BD), chế độ ăn TA 10 mg/kg (TA10), chế độ ăn TA 50 mg/kg (TA50) và chế độ ăn TA 100 mg/kg (TA100) đối với tôm trong thí nghiệm

Kết quả về hiệu suất tăng trưởng 

Tôm được cho ăn bổ sung Tyramine cho kết quả tăng trọng cao hơn đáng kể so với đối chứng sau 56 ngày. Mức tăng trọng của nhóm được cho ăn TA50 cao hơn đáng kể so với nhóm được cho ăn TA100 sau 7 ngày và cao hơn đáng kể so với nhóm được cho ăn TA10 và TA100 sau 14 ngày. Không có sự khác biệt đáng kể về việc tăng trọng giữa các nghiệm thức vào ngày thứ 28 và 42 (Hình 1A). Hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm được cho ăn TA10, TA50 và TA100 cao hơn đáng kể so với tôm được cho ăn BD sau 42 và 56 ngày. Trong số các nghiệm thức, tôm ở TA50 có tăng trọng cao hơn đáng kể so với tôm ở TA100 sau 7 ngày, trong khi không có sự khác biệt đáng kể ở thời điểm 14 và 28 ngày (Hình 1 B). Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sống giữa các nhóm cho ăn tại mỗi thời điểm (Hình 1C). 

Hình 1
Hình 1: Kết quả về tỷ lệ tăng trọng (A), hiệu quả sử dụng thức ăn (B) và tỷ lệ sống (C) của tôm thẻ Litopenaeus vannamei được nuôi bằng khẩu phần cơ bản (BD), khẩu phần TA 10 mg/kg (TA10), khẩu phần TA 50 mg/kg (TA50), và Chế độ ăn TA 100 mg/kg (TA100) trong 0, 7, 14, 28 và 56 ngày. Tôm được nuôi bằng chế độ ăn cơ bản (BD) được dùng làm đối chứng. Dữ liệu được biểu thị (trung bình ± SEM) với các chữ cái khác nhau có sự khác biệt đáng kể (p < 0,05) giữa các nghiệm thức. Dữ liệu không có chữ cái có nghĩa là không có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức. 

Kết quả về các thông số miễn dịch của tôm 

Về THC, tôm được nuôi bằng TA10 có THC cao hơn đáng kể so với BD sau 7 và 28 ngày; những cá thể được cho ăn TA50 có THC cao hơn đáng kể so với BD sau 7, 28 và 56 ngày; và tôm được nuôi bằng TA100 có THC cao hơn đáng kể so với BD sau 7, 14 và 28 ngày (Hình 2A). HC, SGC và GC của tôm được nuôi bằng TA10 cao hơn đáng kể so với nhóm cho ăn BD sau 7 ngày và không có sự khác biệt đáng kể nào được ghi nhận sau 7, 14, 28 và 56 ngày (Hình 2B–D). 

Tôm được nuôi bằng TA10 và TA50 không có sự khác biệt đáng kể về hoạt động PO so với BD ở các ngày 7, 14, 28 và 56. Tuy nhiên, tôm được nuôi bằng TA100 có hoạt động PO tăng đáng kể so với BD ở ngày 7 ngày (Hình 3A). RB của tôm được nuôi bằng TA10 và TA50 cao hơn đáng kể so với RB của tôm nhận BD sau 7 ngày. Tôm được cho ăn TA100 dẫn đến hoạt động RB cao hơn đáng kể so với nhóm cho ăn BD ở ngày thứ 7 và 14. Không có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức ở ngày 14, 28 và 56 (Hình 3B). 

Hình 2 và 3
Hình 2 và 3. Tổng số lượng tế bào máu (A), tế bào hyaline (B), tế bào bán hạt (C) và tế bào hạt (D) của tôm được nuôi bằng khẩu phần cơ bản (BD), khẩu phần TA 10 mg/kg (TA10), 50 mg/kg chế độ ăn TA (TA50) và chế độ ăn TA 100 mg/kg (TA100) trong 0, 7, 14, 28 và 56 ngày. Tôm được nuôi bằng chế độ ăn cơ bản (BD) được dùng làm đối chứng. Dữ liệu được biểu thị (trung bình ± SEM) với các chữ cái khác nhau có sự khác biệt đáng kể (p < 0,05) giữa các nghiệm thức. Dữ liệu không có chữ cái có nghĩa là không có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức + Hoạt động PO (A) và bùng phát hô hấp (B) của tôm được nuôi bằng khẩu phần cơ bản (BD), khẩu phần TA 10 mg/kg (TA10), khẩu phần TA 50 mg/kg (TA50) và 100 mg/ kg chế độ ăn TA (TA100) trong 0, 7, 14, 28 và 56 ngày. Tôm được nuôi bằng chế độ ăn cơ bản (BD) được dùng làm đối chứng. Dữ liệu được biểu thị (trung bình ± SEM) với các chữ cái khác nhau có sự khác biệt đáng kể (p < 0,05) giữa các nghiệm thức. Dữ liệu không có chữ cái có nghĩa là không có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức.

Kết quả cảm nhiễm tôm với V. alginolyticus  

Tôm được nuôi bằng TA10 và TA50 mang lại hiệu quả thanh thải cao hơn đáng kể so với BD ở ngày 7 và 14. Tôm được nuôi bằng TA100 có kết quả thanh thải cao hơn đáng kể so với nhóm cho ăn BD ở ngày 7, 14 và 28. Không có ý nghĩa sự khác biệt được quan sát thấy ở ngày thứ 56 (Hình 4A). Hoạt tính thực bào của tôm được nuôi bằng TA10, TA50 và TA100 cao hơn đáng kể so với nhóm BD ở ngày 7, 14 và 28. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát thấy ở 56 ngày (Hình 4B). Sau cảm nhiễm, tỷ lệ sống của tôm được cho ăn TA100 và TA50 sau 28 ngày lần lượt cao hơn 26,7% và 10% so với tôm được cho ăn BD (Bảng 2). Không có sự khác biệt đáng kể giữa tôm được nuôi bằng BD và TA sau 56 ngày cho ăn (Bảng 3). Tất cả tôm ở nhóm đối chứng đều sống. 

Hình 4
Hình 4. Hiệu suất thanh thải (A) và hoạt động thực bào (B) của tôm được nuôi bằng khẩu phần cơ bản (BD), khẩu phần TA 10 mg/kg (TA10), khẩu phần TA 50 mg/kg (TA50) và 100 mg/ kg chế độ ăn TA (TA100) trong 0, 7, 14, 28 và 56 ngày. Tôm được nuôi bằng chế độ ăn cơ bản (BD) được dùng làm đối chứng. Dữ liệu được biểu thị (trung bình ± SEM) với các chữ cái khác nhau có sự khác biệt đáng kể (p < 0,05) giữa các nghiệm thức. Dữ liệu không có chữ cái có nghĩa là không có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức. 

Bảng 2
Bảng 2. Tỷ lệ sống của tôm được nuôi bằng khẩu phần cơ bản (BD), khẩu phần TA 10 mg/kg (TA10), khẩu phần TA 50 mg/kg (TA50) và khẩu phần TA 100 mg/kg (TA100) trong 28 ngày sau đó gây cảm nhiễm với Vibrio alginolyticus.

Bảng 2
Bảng 3. Tỷ lệ sống của tôm được nuôi bằng khẩu phần cơ bản (BD), khẩu phần TA 10 mg/kg (TA10), khẩu phần TA 50 mg/kg (TA50) và khẩu phần TA 100 mg/kg (TA100) trong 56 ngày sau đó gây cảm nhiễm với Vibrio alginolyticus.

Kết quả xác định các yếu tố sinh lý của tôm  

Tôm được nuôi bằng chế độ ăn TA100 dẫn đến kết quả về hemolymph OAcao hơn đáng kể so với chế độ ăn BD ở ngày 14 và 28. Tôm được nuôi bằng TA50 có kết quả cao hơn đáng kể so với tôm được cho ăn BD ở ngày 7, 14 và 28. Không sự khác biệt đáng kể đã được quan sát thấy ở ngày thứ 56 (Hình 5). Mức đường huyết của tôm được nuôi bằng TA10 thấp hơn đáng kể so với nhóm BD sau 28 ngày và tôm được nuôi bằng TA100 thấp hơn đáng kể so với nhóm BD sau 56 ngày (Hình 6A). Mức hemolymph lactate của tôm được nuôi bằng TA50 và TA100 cao hơn đáng kể so với nhóm BD sau 7 ngày và không có sự khác biệt đáng kể về hemolymph lactate sau 14 đến 56 ngày cho ăn (Hình 6B). 

Hình 5
Hình 5. Kết quả về mức Octopamine trong huyết tương của tôm thẻ được nuôi bằng khẩu phần cơ bản (BD), khẩu phần TA 10 mg/kg (TA10), khẩu phần TA 50 mg/kg (TA50) và khẩu phần TA 100 mg/kg (TA100) đối với 0, 7, 14, 28 và 56 ngày.  

Hình 5
Hình 6. Glucose huyết tương (A) và lactate (B) của tôm được nuôi bằng khẩu phần cơ bản (BD), khẩu phần TA 10 mg/kg (TA10), khẩu phần TA 50 mg/kg (TA50) và 100 mg/kg Chế độ ăn TA (TA100) trong 0, 7, 14, 28 và 56 ngày. 

Tóm lại, những phát hiện này cho thấy rằng việc bổ sung TA vào chế độ ăn của tôm có thể mang lại những tác động có lợi đối với sức khỏe và tăng trưởng của tôm. Ngoài ra, nghiên cứu này cung cấp thông tin quan trọng cho ứng dụng tiềm năng của TA trong thức ăn cho tôm, có thể mang lại giá trị đáng kể cho ngành NTTS. 

Đăng ngày 16/12/2023
L.X.C @lxc
Nguyên liệu
Bình luận
avatar

Nguồn gốc Astaxanthin trong chuỗi thức ăn

Các nguồn astaxanthin tổng hợp và tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến xu hướng của ngành, gây ra một làn sóng trên thị trường dược phẩm dinh dưỡng thế giới về sản phẩm dạng viên nang.

Astaxanthin
• 09:48 10/09/2024

Liệu giá có giảm khi nguyên liệu không còn phụ thuộc vào thị trường nước ngoài?

Một trong những thách thức lớn mà ngành này phải đối mặt là chi phí thức ăn, chiếm đến 60-70% tổng chi phí sản xuất. Giá thức ăn thủy sản không ngừng gia tăng trong những năm gần đây, một phần do sự biến động của giá nguyên liệu trên thị trường quốc tế. Với thực trạng này, câu hỏi đặt ra là liệu giá thức ăn có giảm khi nguyên liệu sản xuất không còn phụ thuộc vào thị trường nước ngoài?

Thức ăn công nghiệp
• 09:27 10/09/2024

Công thức sử dụng một số thảo dược kháng bệnh cho tôm

Sử dụng chiết xuất thảo dược để tăng cường miễn dịch và kiểm soát bệnh cho tôm nuôi được biết đến từ lâu, và hai năm qua các chuyên gia ở Trường Thủy sản thuộc Trường Đại học Cần Thơ thực hiện chương trình Đổi mới sáng tạo tôm Mekong tập trung nghiên cứu đưa ra một số công thức cụ thể.

Tôm thẻ
• 12:02 09/09/2024

Peru: Sản lượng bột cá, dầu cá toàn cầu tăng trong nửa đầu năm 2024

Trong nửa đầu năm 2024, sản lượng bột cá và dầu cá toàn cầu đã có sự gia tăng đáng kể, nhờ vào những hoạt động đánh bắt thành công tại Peru — một trong những quốc gia sản xuất lớn nhất thế giới trong ngành này.

Bắt cá
• 15:35 28/08/2024

Mực ma cà rồng: Sinh vật có lai lịch và hành tung bí ẩn

Dưới lòng đại dương sâu thẳm và tăm tối, có một sinh vật biển có ngoại hình kỳ dị và hành tung hết sức bí hiểm trú ẩn, các nhà khoa học đặt tên cho chúng là “mực ma cà rồng đến từ địa ngục”.

Mực ma cà rồng
• 15:50 17/09/2024

Vì sao phải lắp giàn quạt và oxy đáy cho ao nuôi tôm?

Một trong những biện pháp hiệu quả giúp đạt được điều này là lắp đặt giàn quạt nước và hệ thống cung cấp oxy đáy cho ao nuôi tôm. Cả hai hệ thống này không chỉ giúp cải thiện chất lượng nước mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng năng suất và giảm thiểu rủi ro cho người nuôi. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu lý do vì sao giàn quạt nước và oxy đáy lại cần thiết cho ao nuôi tôm.

Quạt nước
• 15:50 17/09/2024

Các kỹ thuật quản lý tôm sau mưa bão

Mưa bão là một trong những yếu tố thời tiết có ảnh hưởng mạnh mẽ đến môi trường nuôi tôm, gây ra nhiều thay đổi đột ngột về chất lượng nước, nhiệt độ, và nồng độ oxy hòa tan. Sau mỗi cơn mưa bão, người nuôi tôm cần áp dụng các kỹ thuật quản lý kịp thời và hiệu quả để giảm thiểu rủi ro và đảm bảo sức khỏe cho đàn tôm.

Ao tôm
• 15:50 17/09/2024

Cảnh báo mưa lớn: Khu vực Nam Bộ đề phòng ngập úng

Thông tin từ Đài Khí tượng Thủy cảnh báo về mưa lớn trên diện rộng ở khu vực Nam Bộ, đặc biệt là khả năng xảy ra lũ trên các sông lớn như sông Đồng Nai. Khi mưa lớn kéo dài, lượng nước đổ về các sông có thể tăng nhanh, dẫn đến lũ lụt, đặc biệt tại các khu vực hạ du của các con sông.

Mưa lớn
• 15:50 17/09/2024

Gỡ “thẻ vàng” và vị trí thị trường EU

Theo kế hoạch, trong tháng 10/2024, Đoàn thanh tra của Ủy ban Châu Âu (EC) lần thứ 5 đến nước ta kiểm tra việc thực hiện chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Vấn đề chống khai thác IUU, gỡ cảnh báo “thẻ vàng” đã tròn 7 năm ngày càng cho thấy vị trí quan trọng của thị trường EU đối với thủy sản xuất khẩu nước ta.

Xuất khẩu thủy sản
• 15:50 17/09/2024
Some text some message..