63% lượng nước sông của Việt Nam phụ thuộc các quốc gia khác

Đó là thông tin được Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cung cấp. Trong khi dự báo 5 năm nữa 35% dân số thế giới rơi vào cảnh thiếu nước nghiêm trọng.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường - Ảnh: Quochoi.vn

Sáng nay 17-8, Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội đã tổ chức điều trần về an ninh nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất. Phó chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển và lãnh đạo nhiều bộ, ngành tham dự phiên họp.

Nước không dồi dào như nhiều người nghĩ

Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và nông thôn Nguyễn Xuân Cường, nước không phải là tài nguyên dồi dào, vô hạn như nhiều người vẫn nghĩ. Tuy trái đất chứa lượng nước rất lớn nhưng 97% là nước mặn, chỉ có 3% còn lại là nước ngọt (nhưng 2/3 lượng nước này tồn tại ở dạng sông băng và các mũ băng ở các cực).

Hiện khoảng 1/3 số quốc gia trên thế giới hiện đang bị thiếu nước, dự báo đến năm 2025 con số này sẽ tăng lên 2/3 với khoảng 35% dân số thế giới rơi vào tình cảnh thiếu nước nghiêm trọng.

Việt Nam có hệ thống sông, suối dày đặc, trong đó có 109 sông chính, 126 con sông từ nước ngoài chảy vào. Tổng lượng nước mặt trung bình của tất cả các con sông vào khoảng 840 tỉ m3, trong đó khoảng 520 tỉ m3 (tương ứng 63% tổng lượng nước mặt) sản sinh ở bên ngoài lãnh thổ.

Cụ thể, sông Mekong có tới 90,1% lượng nước đến từ các quốc gia trên thượng nguồn, sông Hồng 38,5%, sông Cả 18,4%, sông Mã 27,1%. "Lượng nước này hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động khai thác, sử dụng, và bảo vệ nguồn nước tại các quốc gia thượng nguồn lưu vực sông", ông Cường nói.

Theo nghiên cứu của Hội đồng Ủy hội sông Mekong quốc tế năm 2017 công bố, khi các công trình thủy điện của các quốc gia phía thượng nguồn hoàn thành xây dựng, đi vào vận hành sẽ có tác động bất lợi vô cùng lớn, không thể đảo ngược đến chế độ dòng chảy, phù sa, chất dinh dưỡng, môi trường, sinh kế người dân vùng ĐBSCL, dự kiến lượng phù sa về ĐBSCL có thể giảm 97% ở thời điểm năm 2040.

Ở trong nước, chất lượng nước trên các lưu vực sông đang bị suy giảm và trở thành vấn đề nóng tại nhiều địa phương. Gia tăng dân số và quá trình đô thị hóa thời gian qua đã và đang gây sức ép đến chất lượng nước trong các lưu vực sông. Hiện các hồ và kênh mương ở các khu vực đô thị đang trở thành nơi chứa và dẫn nước thải.

"Mức độ ô nhiễm nguồn nước trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn, các khu tập trung dân cư rất nghiêm trọng. Trong tổng lượng nước thải phát sinh ra các lưu vực sông, lượng nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất", Bộ trưởng cho hay.

Người đứng đầu ngành nông nghiệp cho rằng để đảm bảo an ninh nguồn nước trong tương lai với tầm nhìn 50-100 năm tới thì phải thay đổi tư duy mạnh mẽ, đầu tư đúng và đủ, phối hợp liên vùng và liên quốc gia... mới có thể khắc phục được bất cập, thách thức đang đặt ra.

63% lượng nước sông của Việt Nam phụ thuộc các quốc gia khác - Ảnh 2.

Đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy (Bến Tre) - Ảnh: Quochoi.vn

Xoay lại trục sản xuất để thích ứng

"Việt Nam đối mặt với hai vấn đề, một là thừa nước gây ra lũ lụt, xói mòn, hai là thiếu nước do khô hạn và xâm nhập mặn. Chúng ta phải chuyển đổi nền kinh tế để thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó có đảm bảo an ninh nguồn nước, đặc biệt là với khu vực ĐBSCL", Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường Trần Hồng Hà nói.

Cũng quan tâm đến vấn đề nước của ĐBSCL, đại biểu Trần Xuân Hùng (Hà Nam) chất vấn về "kế hoạch của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp về giải quyết hệ lụy, tác động của biến đổi khí hậu đối với nguồn nước ĐBSCL như thế nào?".

Đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy (Bến Tre) cũng đặt vấn đề: "ĐBSCL bốn bề sông nước nhưng luôn phải đối mặt với hạn hán và xâm nhập mặn, một trong các lý do đó là thiếu các công trình dự trữ nước ngọt lớn, liên vùng. Tứ giác Long Xuyên là vùng trũng, nhưng cũng chưa được quy hoạch thành khu vực dự trữ nước tự nhiên cho vùng. Xin hỏi quan điểm của Bộ trưởng?".

Đáp lại, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đề cập đến giải pháp để phát triển bền vững là phải xoay trục sản xuất. "Nếu như trước kia ĐBSCL trồng lúa là nhiều, sau đó là trái cây và thủy sản, tức là dựa vào nước ngọt là nhiều thì tới đây chúng ta xoay trục lại là thủy sản, trái cây và lúa. Thế giới tới đây cần nhiều thủy sản, trái cây và nhu cầu lúa gạo sẽ giảm dần", ông nói.

Ông Cường khẳng định giải pháp trên đang được thực hiện quyết liệt, ngay cả địa phương đầu nguồn là An Giang cũng đang chuyển theo hướng này và chứng tỏ hiệu quả. Đồng thời, các công trình thủy lợi lớn đã và đang được đầu tư xây dựng, đầu tư lớn như hệ thống cống thủy lợi Cái Lớn, Cái Bé có phạm vi kiểm soát hàng trăm ngàn hecta đất sản xuất.

"Khu vực Tây Nguyên hiện nay cấp nước sinh hoạt cho nông thôn chỉ đạt 40%, chất lượng hạn chế, cấp nước thủy lợi chỉ đạt 28%. Nhu cầu sử dụng nước của Tây Nguyên hiện nay lớn hơn nhiều so với khả năng đáp ứng. Đề nghị Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp cho biết định hướng, tính khả thi và nguồn lực để thực hiện các giải pháp cung cấp nước cho Tây Nguyên", đại biểu Đinh Duy Vượt (Gia Lai) hỏi.

Trả lời, Bộ trưởng Cường khẳng định Tây Nguyên - nóc nhà của Đông Dương - có tài nguyên 5,5 triệu ha đất rất quý, nhưng sản xuất nông nghiệp thời gian qua đã phát triển quá nóng (sử dụng tới 2,6 triệu ha đất), đồng thời di dân tự do tạo sức ép quá lớn.

"Do vậy phải cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo chiều sâu, hiệu quả. Phải giữ bằng được diện tích rừng, nâng cao chất lượng, tăng độ che phủ rừng. Đồng thời phải đầu tư hơn nữa xây dựng hệ thống hồ chứa vì Tây Nguyên có hơn 1.000 hồ chứa nhưng chủ yếu là hồ dung tích nhỏ", Bộ trưởng cho biết.

Vẫn theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, để phát triển hệ thống hồ, đập chứa nước và điều tiết nguồn nước, cần nguồn lực đầu tư của toàn xã hội, trong đó có đầu tư PPP như luật đã quy định. Nhật Bản diện tích rộng hơn Việt Nam chút nhưng họ có tới 18.000 hồ nước, trong khi Việt Nam mới có 7.000 hồ.

"Thu hút đầu tư xã hội thì không những thu hút được nguồn lực mà còn có sự tham gia của quản trị xã hội vào lĩnh vực này", ông Cường bày tỏ.

25 năm tới, phần lớn diện tích Cà Mau ngang mặt nước biển

Phát biểu kết thúc phiên điều trần, Phó chủ tịch Quốc hội đề cập đến nguy cơ từ biến đổi khí hậu dẫn đến mực nước biển dâng, kịch bản xấu có thể xảy đến với Việt Nam năm 2050 là nước biển dâng thêm 21-25cm, đến năm 2100 nước biển dâng từ 44-100cm. Tại Cà Mau cùng với xu hướng nước biển dâng và sụt lún, thì dự báo 25 năm tới phần lớn diện tích tỉnh này ngang bằng với mực nước biển.

"Nhiều người lầm tưởng Việt Nam thừa nước ngọt, nhưng theo các tiêu chí quốc tế thì Việt Nam là quốc gia thiếu nước ngọt. Nguy cơ này càng trầm trọng khi phải đối mặt với biến đổi khí hậu, gia tăng dân số và kinh tế phát triển nóng", ông Hiển nói.

Ông nhấn mạnh rằng trong tương lai Việt Nam phải đảm bảo nước sinh hoạt cho 115-120 triệu dân. Chúng ta phải giữ cho được hình thể đất nước, lấn biển chứ đừng để cho biển lấn. Do đó,cần thay đổi nhận thức, hoàn thiện hệ thống pháp lý đối với an ninh nguồn nước.

Tuổi Trẻ
Đăng ngày 18/08/2020
Lê Kiên
Môi trường

Lợi ích của việc giảm phát thải trong ngành tôm

Ngành nuôi tôm đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu thủy sản của đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, ngành tôm cũng đối mặt với những thách thức lớn về môi trường, đặc biệt là vấn đề phát thải khí nhà kính và ô nhiễm nguồn nước. Việc giảm phát thải trong ngành tôm không chỉ mang lại lợi ích về môi trường mà còn góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Nuôi tôm
• 09:41 14/03/2025

Công nghệ tái chế và xử lý chất thải trong thủy sản

Công nghệ tái chế và xử lý chất thải trong ngành thủy sản đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, tiết kiệm tài nguyên và phát triển bền vững.

Nước thải
• 10:48 04/03/2025

Tăng cường ứng phó với đợt xâm nhập mặn cao điểm tại Đồng bằng sông Cửu Long

Xâm nhập mặn đang trở thành một thách thức nghiêm trọng đối với nền nông nghiệp và đời sống của người dân tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đặc biệt, tình trạng xâm nhập mặn được dự báo sẽ diễn biến phức tạp, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, nguồn nước sinh hoạt và hệ sinh thái tự nhiên. Vì vậy, việc chủ động triển khai các giải pháp ứng phó hiệu quả là nhiệm vụ cấp bách nhằm giảm thiểu thiệt hại và bảo vệ sinh kế của người dân.

Nuôi trồng thủy sản
• 10:00 04/03/2025

Mô hình nuôi tôm không xả thải được nghiên cứu và ứng dụng thành công

Trong những năm gần đây, ngành nuôi trồng thủy sản đã chứng kiến những bước tiến đột phá nhờ vào áp dụng các công nghệ môi trường bền vững. Trong đó, mô hình nuôi tôm không xả thải đã được nghiên cứu và ứng dụng thành công, giải quyết được những thách thức lâu nay về ô nhiễm môi trường trong nuôi tôm

Ao nuôi
• 10:10 22/01/2025

Cơ hội gỡ bỏ thẻ vàng IUU sắp tới của ngành thủy sản Việt Nam

Ngành thủy sản Việt Nam đang đứng trước cơ hội quan trọng để gỡ bỏ thẻ vàng IUU (Illegal, Unreported and Unregulated Fishing – khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định) do Ủy ban châu Âu (EC) áp dụng từ năm 2017.

Tàu cá
• 01:37 18/03/2025

Một loài cá có khả năng dùng miệng “bắn hạ” con mồi

Những khả năng mà sinh vật biển sở hữu từ trước đến nay vẫn không ngớt làm nhân loại tò mò và trầm trồ. Điển hình là từ loài cá thòi lòi biết đi trên cạn, cá có tiếng kêu giống tiếng em bé (cá oa oa), loài sên biển tự tái tạo cơ thể,... đến một loài cá mang tên cung thủ với kỹ năng phun nước cách xa tới 2m.

Cá cung thủ
• 01:37 18/03/2025

Nguồn gốc và lịch sử của cá Ranchu

Cá Ranchu là một trong những dòng cá vàng được yêu thích nhất trên thế giới nhờ vẻ ngoài độc đáo và sự duyên dáng khi bơi lội. Được mệnh danh là "vua của cá vàng" tại Nhật Bản, Ranchu không chỉ có giá trị thẩm mỹ cao mà còn mang đậm tính nghệ thuật trong quá trình nuôi dưỡng và chăm sóc. Để hiểu rõ hơn về Ranchu, chúng ta cần đi sâu vào lịch sử và nguồn gốc của loài cá đặc biệt này.

Cá ranchu
• 01:37 18/03/2025

Quản lý chất lượng nước trong ao nuôi ghép tổng hợp tôm, cua, cá

Nuôi ghép tổng hợp tôm, cua, cá là mô hình sản xuất thủy sản ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Mô hình này tận dụng các loài thủy sản có khả năng hỗ trợ nhau trong quá trình sinh trưởng, phát triển, đồng thời giúp tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên và cải thiện hiệu quả kinh tế.

Dụng cụ đo
• 01:37 18/03/2025

Phát triển bền vững nghề nuôi cá lồng bè gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm

Nhằm tạo chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm trong nuôi cá trong lồng bè, giúp nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, đem lại nguồn thu nhập ổn định và bền vững cho người dân.

Nuôi lồng bè
• 01:37 18/03/2025
Some text some message..