Thiếu liên kết
Vùng ĐBSCL trước đây có 10 tỉnh nuôi cá tra, nhưng năm nay Hiệp hội Cá tra Việt Nam cho biết tỉnh Kiên Giang không còn nuôi, tỉnh Sóc Trăng chỉ nuôi 2ha. Hai tỉnh Hậu Giang, Vĩnh Long giảm diện tích và sản lượng. Bên cạnh đó, nhiều địa phương khác tăng diện tích và sản lượng nên theo Tổng cục Thủy sản, tính đến ngày 30-11-2016, diện tích nuôi cá tra ĐBSCL đạt 4.552ha, sản lượng đã thu hoạch 1,047 triệu tấn. So với cùng kỳ 2015, diện tích tăng 3,1% nhưng sản lượng lại tăng đến 8,9%, do tăng kích cỡ cá thu hoạch để bán sang thị trường Trung Quốc.
Theo số liệu của Hiệp hội cá tra, khoảng 11,43% sản lượng cá tra tiêu thụ trong nước, còn lại xuất khẩu. Theo ngành hải quan, năm 2016, cá tra xuất sang 140 thị trường, tăng 4 thị trường so với năm 2015; kim ngạch gần 1,466 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2015. Các thị trường chính là Mỹ, Trung Quốc-Hong Kong, EU, ASEAN, Mexico, Brazil, Colombia và Arabia Saudi chiếm 79,2% kim ngạch.
Xuất khẩu cá tra đang tăng mạnh ở thị trường Trung Quốc-Hong Kong. Đến ngày 15-11, thị trường này đã đạt kim ngạch hơn 252 triệu USD, tăng 80,6% so với cùng kỳ năm 2015. Theo Tổng cục Thủy sản, cả năm 2016, thị trường này đạt 305 triệu USD, tăng gần 90% so với năm 2015. Hiện thị trường Trung Quốc-Hong Kong đã đứng thứ hai, sau Mỹ.
Tổng cục Thủy sản cũng dự đoán, thị trường Trung Quốc-Hong Kong có thể tiếp tục tăng mạnh trong năm 2017 và thị trường này sẽ vượt Mỹ, trở thành thị trường nhập khẩu cá tra lớn nhất. Tuy nhiên, Hiệp hội cá tra lo lắng “thị trường Trung Quốc đang có mức tăng trưởng khá cao nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro”. Ông Doãn Tới, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Nam Việt, giải thích việc Trung Quốc ồ ạt nhập khẩu cá tra Việt Nam do là sản phẩm có giá rẻ nhất, không có sản phẩm nào rẻ hơn. “Sắp tới, Trung Quốc nhập khẩu cá tra Việt Nam chắc chắn sẽ vượt 400 triệu USD”, ông Tới nhấn mạnh.
Trong khi đó, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), cho biết định hướng xuất khẩu cá tra vào Trung Quốc trong năm 2017 vẫn chiếm khoảng 20% của toàn ngành. Nhưng chúng ta cần tập trung vào phân khúc chất lượng cao, cung cấp vào nhà hàng, thay vì tập trung vào sản lượng.
Dù vậy, người nuôi cá tra vẫn chưa thoát khỏi khó khăn kéo dài nhiều năm qua, do giá cả bấp bênh. Việc liên kết giữa doanh nghiệp và người nuôi vẫn nhiều trục trặc. Tổng cục Thủy sản cho biết, tính đến cuối năm 2016, diện tích nuôi của doanh nghiệp chiếm 51,95%, còn lại của cá nhân và tập thể. Chuỗi liên kết giữa doanh nghiệp và người nuôi chưa nhiều và chưa hoàn chỉnh, các hộ nuôi nhỏ lẻ gặp nhiều khó khăn khi ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Một số doanh nghiệp sau khi thu hoạch cá đã không đầu tư lại cho người nuôi vụ tiếp theo.
Cần đa dạng sản phẩm
Theo nhận định của ngành hải quan, cá tra năm 2016 xuất khẩu với 35 loại sản phẩm. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là cá tra đông lạnh, chiếm đến 99,2% kim ngạch; còn lại tỷ lệ quá nhỏ cá tra chế biến (cá tra tẩm gia vị, cá tra tẩm bột, cá tra cuộn hoa hồng và cá tra xiên que…). Đây là một yếu kém của ngành sản xuất cá tra.
Một nghiên cứu của các chuyên gia ở Khoa Công nghệ thực phẩm (Trường ĐH Nông lâm TPHCM) cho biết, thịt phi lê chỉ chiếm khoảng 36% trọng lượng con cá. Còn lại 64% trọng lượng con cá thường được gọi là phụ phẩm, thậm chí là phế phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, chưa được quan tâm chế biến thành sản phẩm có chất lượng. Với sản lượng cá tra một năm trên 1 triệu tấn, tiềm năng chưa được khai thác còn rất lớn.
Để khai thác tiềm năng lớn đó, theo các chuyên gia, phải đổi mới công nghệ để đổi mới sản phẩm cá tra theo hướng bền vững. Cả nước hiện có khoảng 200 doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra, đa số đang gặp khó khăn về vốn. Hiệp hội cá tra cho biết, một số doanh nghiệp đến nay gần như cạn kiệt, thiếu vốn hoạt động lại mang nợ xấu, khó tiếp cận vốn tín dụng nên sản xuất cầm chừng.
Trước nhiều thách thức về vốn và thị trường, Tổng cục Thủy sản xác định chiến lược vượt lên là “đa dạng sản phẩm, chú trọng phát triển sản phẩm giá trị gia tăng”. Khuyến khích phát triển dòng sản phẩm chất lượng cao để cải thiện hình ảnh và giá trị của sản phẩm cá tra Việt Nam, bên cạnh đó tận dụng hiệu quả phụ phẩm để khai thác tiềm năng, gắn với xúc tiến thương mại, phát triển thị trường cho các sản phẩm mới.
Cũng theo Tổng cục Thủy sản, hiện nước ta có 20 doanh nghiệp lớn chiếm tỷ trọng khoảng 80% toàn ngành, các doanh nghiệp chế biến nắm giữ khoảng 70% sản lượng nguyên liệu. Đây là những doanh nghiệp có tiềm năng nghiên cứu đổi mới quy trình công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng, sản phẩm chế biến sâu. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi tín dụng khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư công nghệ để đa dạng sản phẩm, đồng thời qua đó làm đầu mối của chuỗi giá trị mới.