Cá bè xước có tên khoa học là Scomberoides commersonianus. Trên thế giới, loài này phân bố ở vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới Ấn Độ-Thái Bình Dương, Hồng Hải, Nam Phi, Ấn Độ, Indonesia, Philippine, Xri Lanca, Nhật Bản, Trung Quốc. (Nguồn Vnecdn)
Ở Việt Nam, cá bè xước thường phân bố ở vịnh Bắc Bộ, miền Trung, Đông và Tây Nam Bộ, trong đó tập trung nhiều ở vùng nước không quá sâu thuộc khu vực Vũng Tàu - Phú Quốc và Cát Bà - Nghệ An. (Nguồn Sggp)
Cá bè xước có đặc tính di chuyển, bắt mồi theo đàn nhỏ. Thức ăn của chúng bao gồm cá, động vật chân đầu và động vật thân mềm cỡ nhỏ. (Nguồn Eastwestseafoods)
Thịt cá bè xước thơm ngon, có thể làm thành nhiều món ăn như kho tiêu, nướng, chiên.Có thể câu cá bè xước bằng mồi sống, mồi chết, miếng cá nhỏ, mồi giả… Với mồi giả, nên lựa chọn vào tốc độ và chuyển động, sẽ hấp dẫn cá hơn.
Đặc điểm sinh học của cá bè xước:
Mõm: hình tù và, lõm ở trên mắt. Chiều dài mõm xấp xỉ đường kính mắt.
Chiều dài đầu bằng 4,5-6,0 lần đường kính mắt. Hàm trên dài đến phía sau mắt. Răng hàm trên là một hàng răng hình nón ở phía ngoài và một dải răng lông nhung ở phía trong. Răng hàm dưới là hai hàng răng hình nón tách biệt bởi một rãnh; có răng nhỏ trên lưỡi, vòm khẩu cái và xương lá mía
Thân: dài, dẹt. Cá đực có thể dài tới 120 cm, nặng 16 kg; thông thường con trưởng thành dài khoảng 90 cm.
Vây lưng thứ nhất có một gai ngược và 6-7 tia cứng bình thường. Vây lưng thứ hai có 1 tia cứng và 19-21 tia mềm. Vây lưng và vây hậu môn có 7-8 tia giống như vây phụ nhưng không tách biệt hoàn toàn. Vây ngực ngắn, trông giống hình lưỡi liềm.
Vây hậu môm có 2 tia cứng liền nhau, tiếp theo là 1 tia cứng và 16-19 tia mềm. Vẩy nhỏ hình mũi tên. Đường bên hơi lượn sóng ở phía trước, không có vẩy lăng. Phần trên của thân màu xanh nhạt, phía dưới màu ánh vàng hoặc sáng bạc; có 5-8 đốm tròn ở hai bên thân.