Macrobrachium spp. là những loài tôm càng xanh nuôi trong các vùng nước nội địa trên thế giới. Trên thực tế chúng là loài đặc hữu của các quốc gia Nam và Đông Nam Á, tuy nhiên do giá trị kinh tế, sự tăng trưởng nhanh, bản chất mạnh mẽ, nhu cầu của thị trường nên nó được đưa đến các khu vực khác trên thế giới.
Vì Macrobrachium sps là loài bản địa của một số quốc gia Đông Nam Á nên chúng có khả năng chịu đựng mầm bệnh tương đối cao và thích nghi tốt với sự biến đổi của điều kiện môi trường. Quan trọng diện tích nuôi các loài tôm càng xanh như M.rosenbergii (scampi); M.malcomsonii và M.gangeticum càng được mở rộng thì lại tỷ lệ thuận với sự bùng phát dịch bệnh, đẩy nhanh việc đưa các mầm bệnh vào xâm nhập và ngành nuôi trồng thuỷ sản.
Trong đó, các loại bệnh do tác nhân virus gây ra là rất nguy hiểm và khó điều trị. Nhưng những nghiên cứu về các tác nhân virus trên tôm càng xanh vẫn còn hạn chế. Hiện nay, có tất cả sáu loài virus gây bệnh cho tôm càng xanh:
1. Macrobrachium hepatoporentic parvo virus (MHPV)
MHPV gây ra bệnh MHP, đây là bệnh đầu tiên được báo cáo trên thế giới. MHPV có nhiều điểm tương đồng với Virus Hepatoporreatic Parvolike ảnh hưởng đến hầu hết tôm sú thông qua việc xâm nhập và gây hại các cơ quan nội tạng, được bao bọc bởi các thể vùi nằm trong các tế bào bị nhiễm bệnh (Sahul hameed et al., 2009). Nhiều báo cáo trước đây cho biết sự xuất hiện và thiệt hại của nó đối với tôm nuôi ít khi xảy ra. Dưới kính hiển vi điện tử, nhân tế bào bị nhiễm bệnh có nhiều hạt nhỏ đường kính khoảng 29nm. Trong nhiều đặc điểm như kích cỡ và vị trí tồn tại, thể vùi virus gần giống với họ Parvoviridae (Jean Robert Bonami et al, 2011). Rất ít nghiên cứu được thực hiện về virus này.
2) Virus cơ Macrobrachium (MMV)
MMV nhóm Parvolike virus, tấn công chủ yếu ở phần cơ thịt tôm và làm chúng bị đục, cuối cùng dẫn đến tình trạng hoại tử mô cơ. Khi nhuộm mẫu mô bệnh, quan sát thấy toàn các mô có nhiều tế bào chết và rời rạc. Làm giảm khả năng bơi lội và bắt mồi của tôm, làm sức sinh trưởng giảm (Radheshyam, 2009). Giai đoạn hậu ấu trùng (PL) rất dễ mắc bệnh này, gây tử vong 50 – 70% trong vòng hai tuần.
3) Virus Macrobrachium rosenbergii Nodavirus (MrNV)
MrNV gây ra bệnh đuôi trắng/bệnh cơ trắng đục/cơ sữa /bệnh đốm cơ, đặc biệt là ở tôm càng xanh. Loại virus này thuộc họ Nodaviridae, sự kết hợp của MrNVin với virus (XSV). XSV là virus phát hiện đầu tiên trên động vật (Biju et al; 2013) Đây là bệnh duy nhất của tôm sú được báo cáo trong hội thảo bệnh thủy sản "OIE" năm 2016, vì vậy chúng ta có thể hiểu được hậu quả đáng sợ của nó đối với ngành sản xuất tôm.
Cơ tôm bị nhiễm MrNV (Nguồn: Internet)
Giai đoạn nhạy cảm
Ấu trùng, hậu ấu trùng (PL), tôm trưởng thành là dễ bị bệnh, tuy nhiên PL là giai đoạn nhạy cảm nhất trong tất cả các giai đoạn của vòng đời tôm. Tỷ lệ tử vong cao trong vòng 5-7 ngày sau khi phát hiện dấu hiệu đầu tiên, số lượng sống sót trong các PL lớn và vẫn mang mầm bệnh suốt đời (Biju et al., 2013).
v Đặc điểm sinh học của MrNV
MrNV chứa RNA, chúng là một virus không có vỏ bọc, kích thước khoảng 26-27nm. Vật chất di truyền bao gồm khoảng 3202 nucleotide (RNA-1) và ca-1175 nucleotide riêng lẻ (RNA-2) (Jean Robert Bonami et al., 2011). Trong RNA -1, có một dãy mã cho hai protein. Protein cấu trúc XSV bao gồm hai polypeptides 17 kDa (CP-17) & 16 kDa (CP-16) tương ứng. Trong khi MrNV thể hiện protein capsid 43 kDa (CP-43). Nhiều nghiên cứu cho thấy sự thật rằng MrNV là tác nhân chủ yếu gây bệnh đục cơ và đuôi trắng trên tôm càng xanh.
v Bệnh học
Khi bị nhiễm bệnh, cơ tôm trở nên mờ đục và có màu trắng đậm đặc ở vùng bụng. Vì vậy, nó cũng được gọi với cái tên là "bệnh cơ trắng". Các thay đổi về hành vi bao gồm chán ăn, bơi chậm chạp và bất thường. Lột xác và vỏ trôi trong ao/bể được quan sát trông giống như "vảy mica" (Biju và cộng sự, 2013). Trong các trường hợp nghiêm trọng, mấu đuôi và đốt cuối bị thoái hoá. Xét nghiệm RT-PCR cho thấy có sự hiện diện của MrNV XSV trong ruột, tim, mô mang, dạ dày, máu, buồng trứng, cơ đầu, và cơ đuôi trong tôm có tiêm thử nghiệm, nhưng không thấy có virus ở gan tụy và mắt (Sahul hameed và et al., 2009). Mô bệnh học mô bệnh học cho thấy tổn thương cơ thể (0,5 - 3 μm) xảy ra trong tế bào chất, hoại tử ở cơ vân và mô liên kết của bụng, đầu, đuôi, bao gồm cả sự thoái hóa hyaline nặng và teo cơ.
Tôm có biểu hiện đục cơ
4) Macrobrachium nipponensis Reovirus (MnRV)
MNRV thuộc họ Reoviridae là một bệnh tiêu hóa đặc hiệu. Nó là một virus có vật chất di truyền là RNA. Đặc biệt của loại virus này là chúng tấn công vào các cơ quan ở đường tiêu hóa. Báo cáo ở Trung Quốc (tỉnh Hồ Bắc) vào mùa hè 2008 Tỷ lệ chết ở các trang trại dao động từ 15% đến 60%. Các tế bào gan tụy bị nhiễm và các tế bào khác khi nhuộm Eosin có thể vùi bắt màu nhạt trong tế bào chất.
5) Infec- tious hypodermal and haematopoietic necrosis virus (IHHNV)
Nó gây ra bệnh IHHNV hay còn gọi là bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô. Đây là bệnh đang gia tăng trong những ngày sắp tới. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh dao động từ 80-100% phần lớn được quan sát thấy ở trẻ sơ sinh và trẻ vị thành niên ở miền Nam Đài Loan. Các triệu chứng chính của bệnh này bao gồm sự đổi màu đỏ của lớp biểu bì, chậm phát triển, teo cơ và dị dạng. Quan sát mô học cho thấy sự tồn tại của các thể vùi tâm bắt màu Eosin trong các tế bào biểu mô ống của PL bị bệnh.
Thể vùi IHHNV trong mô tôm.
6) Vi rút hội chứng đốm trắng
Chúng chủ yếu lây nhiễm tôm Penaeid, cũng như sú (M.idella & M.lamerrae) & cua. Một số báo cáo nói rằng tôm càng xanh có khả năng kháng với WSSV. Đây là một loại virut bao bọc hình elip có kích thước 266 × 112 nm và nucleocasid dạng hình trụ có kích thước 420 x 68 nm (Sahul hameed et al., 1998, 2000).
Có 2 nhóm virus gây ra bệnh đốm trắng trên tôm được phát hiện là:
1) Baculovirus (đường kính 280-300 nm)
2) Parvo (22-24 nm)
Theo báo cáo của Hameed et al. (2000) và Sarathi et al. (2008) thì WSSV cũng nhiễm trên tôm càng xanh nhưng nó không gây chết tôm mà nhiễm một thời gian, sau đó không còn phát hiện WSSV trên tôm càng xanh nữa. Do cơ chế của hoạt động melanin hóa của Phenoloxidase, cùng với thành phần của hệ thống hoạt hóa prophenoloxidase kích thích các phản ứng bảo vệ tế bào bao gồm cả thực bào, hình thành hạch, phong tỏa và vận động bạch cầu. Tuy nhiên, đây là một mầm bệnh cực kỳ nguy hiểm và được Bộ NN&PTNT Việt Nam đưa vào danh sách đứng đầu của các bênh trên động vật thủy sản bắt buộc phái công bố dịch. Cấn hết sức đề phòng trường hợp các nhóm virus chuyển đổi các nồi sinh học mới.
Bao gồm cả Ấn Độ nhiều quốc gia trong năm 2010 bắt đầu giảm sản xuất scampi cho rằng 1 trong số các yếu tố chính là sự xuất hiện của WTD. Tôm giống nuôi chúng ta phát triển trong các trang trại liên tục lai giống với con của họ cho thấy năng suất sinh trưởng thấp, đặc điểm của sự trưởng thành sớm, chất lượng trứng thấp, số lượng, và khả năng sống của larval, và khả năng chịu mầm bệnh tối thiểu. Nhiều bệnh tật xảy ra ở F.W tôm thường không nhận thấy do xử lý nước kém, mật độ thả cao, mức độ vệ sinh thấp, thiếu các biện pháp kiểm dịch. Tất cả những điều này được gọi chung là Chăn nuôi cải tiến. Sau khi thực hiện các biện pháp quản lý tốt về an toàn sinh học và quản lý tốt, chủ yếu là kiểm tra sàng lọc tôm bố mẹ & PL, việc duy trì ao hồ chứa là hết sức quan trọng. RNAi (RNA can thiệp là một công cụ đầy hứa hẹn để bảo vệ chống lại MrNV Nếu chúng ta có thể đạt được điều này, chúng ta có thể lấp đầy nhiều khoảng trống của các nguồn tài nguyên chưa được tận dụng như hồ chứa.
7. Macrobrachium rosenbergii Taihu virus (MrTV)
Từ năm 2009, hội chứng tử vong ấu trùng của M. rosenbergii đã bùng phát và lây lan rộng rãi trong khu vực chăn nuôi chính, bao gồm các tỉnh Chiết Giang, Giang Tô, Quảng Tây và Quảng Đông ở Trung Quốc đại lục.
Một virus mới tên là Macrobrachium rosenbergii Taihu virus (MrTV) đã được phân lập từ ấu trùng nhiễm bệnh và được xác định là tác nhân gây ra bởi hội chứng tử vong M. rosenbergii qua nhiễm thực nghiệm.