Kiểm soát từ đầu vào đến đầu ra
20 năm phát triển nhanh, nghề nuôi và chế biến cá tra tại ĐBSCL đã đạt kim ngạch xuất khẩu mỗi năm từ 1,7 - 1,8 tỉ USD. Tuy nhiên, việc con giống suy thoái dẫn đến tỷ lệ hao hụt cao trong quá trình nuôi thương phẩm, nguyên liệu xuất khẩu chưa thực sự đảm bảo làm cho nghề nuôi, chế biến cá tra gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, việc củng cố từ chất lượng con giống đến miếng phi lê xuất khẩu, chất lượng của viên thức ăn, thuốc trị bệnh lẫn môi trường nước là những vấn đề cấp thiết.
Theo thạc sĩ Vương Học Vinh, nguyên Trưởng bộ môn Thủy sản (Trường ĐH An Giang), trước hết cần thay đổi nhận thức trong nuôi cá giống, cá thương phẩm; tức là phải chuyển từ nuôi mật độ dày, cho ăn nhiều, sử dụng kháng sinh liều cao (hoặc kháng sinh thế hệ mới) sang nuôi thưa, cho ăn đủ chất, hạn chế sử dụng kháng sinh. Đặc tính của cá tra là mẫn cảm với môi trường nước, việc thay nước liên tục dễ làm cá bệnh. Khắc phục tình trạng này, cần áp dụng công nghệ cao vào chăn nuôi, cho nước tuần hoàn qua hệ thống lọc tự động, khi môi trường nước không thay đổi cá sẽ ít bệnh.
Bên cạnh đó, trên lĩnh vực chế biến, cần thực thi nghiêm túc Nghị định 36/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó có quy định hàm lượng ẩm không vượt 86%, tỷ lệ mạ băng không vượt quá 10% nhằm giúp cho sản phẩm xuất khẩu đạt chất lượng. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng cần kiểm soát chặt chẽ (từ đầu vào đến đầu ra) các loại hóa chất dùng cho tăng trọng, kháng sinh trong quá trình nuôi, cương quyết xử lý những doanh nghiệp (DN) làm ăn gian dối. DN cần mạnh dạn tẩy chay những khách hàng có yêu cầu mạ băng cao, nhập hàng gian dối; đồng thời tuân thủ quy hoạch đã đề ra, nâng cao vai trò của hiệp hội ngành hàng, kiểm soát hóa chất tăng trọng lẫn thức ăn để hạ thấp chi phí sản xuất.
Cần chính sách hỗ trợ
Hiện trong vùng ĐBSCL có 94 nhà máy chế biến cá tra với tổng công suất gần 1 triệu tấn/năm, dư thừa khả năng chế biến sản lượng cá tra nguyên liệu theo quy hoạch từ nay đến năm 2020. Do đó, để ngành sản xuất cá tra bảo đảm bền vững, các tỉnh, thành phố trong vùng không nên xây dựng mới, cần khuyến khích đầu tư nâng cao năng lực chế biến, tạo sản phẩm có giá trị gia tăng; đầu tư công nghệ sản xuất phụ phẩm cá tra nhằm tạo ra sản phẩm thực phẩm và phi thực phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Ông Nguyễn Ngọc Hải, Giám đốc HTX nuôi cá tra Thới An (Q.Ô Môn, TP.Cần Thơ), cho biết: “Để cá tra giảm thiểu rủi ro, theo tôi cần giữ ổn định diện tích thả nuôi, chính quyền mỗi tỉnh cần khảo sát và nắm nhu cầu sản xuất, chế biến của các DN để đưa ra kế hoạch cụ thể theo đề án quy hoạch vùng nuôi”.
Ông Thái An Lai, Phó chủ tịch Hiệp hội Thủy sản Đồng Tháp, cho rằng nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các hộ nuôi nhỏ lẻ liên kết thành nhóm lớn như tổ hợp tác, HTX, qua đó dễ dàng tiếp cận vốn vay ngân hàng, mua vật tư đầu vào với giá rẻ, thực hiện các tiêu chuẩn sản xuất an toàn và đủ lực tạo ra nguồn cá nguyên liệu lớn cung ứng cho DN.
“Cách làm này có thể giúp các hộ nuôi cá tra trụ lại với nghề sau bao năm bỏ ao. Ngoài ra, cần sắp xếp, chấn chỉnh các DN yếu kém, tình hình tài chính không lành mạnh, hoạt động không rõ ràng và cần xem xét quy định việc các DN thương mại (không có nhà máy chế biến) tham gia xuất khẩu cá tra. Đồng thời ngân hàng cần tiếp tục hỗ trợ các DN làm ăn tốt, đầu tư có chiều sâu hoặc hỗ trợ chuỗi liên kết “4 nhà” nhằm góp phần giải quyết được vấn đề khơi thông vốn cho DN và người nuôi.
Ông Đỗ Văn Nghiệp, Giám đốc Công ty TNHH thương mại thủy sản AFA (An Giang), kiến nghị nhà nước cần có cơ chế để các DN làm ăn thua lỗ cơ cấu lại nợ, đưa xuất khẩu cá tra vào ngành nghề kinh doanh có điều kiện (như xuất khẩu gạo) để loại trừ những DN không đủ điều kiện; đồng thời xây dựng lại chiến lược xuất khẩu cá tra với nhiều phân khúc khách hàng khác nhau, trong đó cá nuôi theo tiêu chuẩn GlobalGAP, VietGAP phải bán được với giá cao hơn nuôi bình thường.
Ông Lê Chí Bình, Thường trực Hiệp hội Cá tra Việt Nam, cho biết: “Mỗi năm, vùng ĐBSCL thả nuôi từ 5.500 - 6.000 ha cá tra, sản lượng đạt cao nhất khoảng 1,2 triệu tấn/năm. Có đến 40.000 người trực tiếp làm việc ở các công đoạn từ nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu và hậu cần nghề cá.