Vực dậy nghề nuôi ngọc trai

Trong ngành động vật thân mềm, nuôi cấy ngọc trai đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn, doanh thu tính theo diện tích 1m2 mặt nước, nuôi cấy ngọc trai gấp 16 - 20 lần nuôi cá và nuôi các động vật thân mềm khác...

ngọc trai
Thu hoạch ngọc trai ở Phú Quốc

Đó là nhận định của ông Nguyễn Mạnh Thắng, Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Cty CP Ngọc trai Việt Nam.

   Công nghệ sẵn sàng

Nghề nuôi cấy ngọc trai ở nước ta ra đời được 50 năm, sớm so với các nước Đông Nam Á nhưng lại chậm phát triển. Do bị động về công nghệ sản xuất, các công ty nuôi cấy ngọc trai trong nước đã ngừng sản xuất hoặc chuyển đổi kinh doanh sang trang sức ngọc trai. Riêng 4 công ty nuôi cấy ngọc trai Nhật Bản và Cty CP Ngọc trai Việt Nam (ở Quảng Ninh) còn nuôi cấy ngọc Akoya. Sản lượng ngọc khoảng 1,5 - 2 tấn/năm. Lượng ngọc trai này tạm xuất về Nhật qua công nghệ sau thu hoạch tái xuất sang các nước khác.

Kể từ năm 1967, chúng ta đã có nhiều đề tài, dự án nghiên cứu về nuôi trai lấy ngọc và cho ra đời rất nhiều quy trình công nghệ, từ sản xuất con giống và nuôi cấy các loài Pinctada martensii Dunker, Sinohyriopsis cumingii Lea; quy trình sản xuất nhân ngọc, dây chuyền công nghệ ngọc trai sau thu hoạch; dây chuyền công nghệ sản xuất nhân ngọc.

Việt Nam hoàn toàn chủ động tổ chức sản xuất khép kín, tiêu thụ sản phẩm ngọc trai loài Pinctada martensii Dunker, Sinohyriopsis cumingii Lea, cho ra ngọc có nhân cứng kích thước đại trà 9 - 12mm và độ dầy từ 0,4 - 1mm. Chất lượng ngọc có thể thay thế dần sản lượng 40 tấn/năm ngọc Akoya kích thức nhỏ do Nhật Bản, Trung Quốc sản xuất và 1.000 tấn/năm ngọc trai nước ngọt cấy bằng mô tế bào không có nhân cứng chất lượng thấp do Trung Quốc sản xuất.

Theo số liệu Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 2008 - 2015 và tầm nhìn năm 2020 của Bộ Thủy sản (nay là Bộ NN-PTNT), đến năm 2007, chúng ta có khoảng 450.000ha nước mặn và 443.000ha nước ngọt (hầu hết mặt nước lớn của các hồ chứa chưa sử dụng) chưa sử dụng. Những diện tích nước mặn, ngọt này phù hợp nuôi cấy ngọc trai.

Ông Nguyễn Mạnh Thắng cho biết: Nếu sử dụng 1% diện tích mặt nước còn hoang hóa ngày để nuôi cấy ngọc trai được khoảng 568 triệu con trai Pinctada martensii Dunker và 221 triệu con trai Sinohyriopsis cumingii Lea.

Sản lượng ngọc trai loại A đến AAA dự tính là 138 tấn kích thước trung bình 9mm và 35 tấn kích thước trung bình 7,5 mm. Tổng doanh thu ngọc thô ước khoảng 3 - 5 tỷ USD. Chế biến thành ngọc thương phẩm, tổng doanh thu ước đạt 10 - 15 tỷ USD. Ngoài ra còn cung cấp cho thị trường khoảng 54.000 tấn vỏ, 568 tấn thịt cơ khép vỏ và 33.400 tấn thịt trai làm nguyên liệu sản xuất cho các ngành nghề khác. 

  Cờ đến tay, phải phất!

Trước đây, sau khi cấy, nuôi 12 tháng thu hoạch ngọc. Để ngọc trai Việt Nam cạnh tranh được trên thị trường, cần phải kéo dài thời gian nuôi lấy ngọc lên 24 - 48 tháng. Như vậy, diện tích mặt nước sử dụng tăng 2 - 4 lần.

Theo điều 12, Nghị định 27/2005/NĐ-CP ngày 8/5/2005 của Chính phủ: “Diện tích mặt nước biển cho thuê để nuôi trồng thủy sản không quá 30ha trong vùng biển 3 hải lý trở vào bờ hoặc không quá 15ha trong vùng biển cách bờ từ 3 hải lý trở ra. Thời hạn giao, cho thuê mặt nước biển để nuôi trồng thủy sản không quá 20 năm”. Chính sách này không còn phù hợp để các doanh nghiệp sản xuất ở quy mô công nghiệp, tạo sản phẩm hàng hóa quy mô lớn, có sức cạnh tranh trên thị trường.

Để mở lối cho sự phát triển của ngành nuôi trai lấy ngọc, Chính phủ cần sớm bổ sung con trai vào những đối tượng nuôi chủ lực hiện nay và quy hoạch lại mặt nước mặn, nước ngọt còn hoang hóa, nhất là mặt nước vùng vịnh, vùng biển có nhiều đảo, các hồ chứa nước tự nhiên, nhân tạo và các con sông ít phù sa đê tạo thuận lợi cho phát triển nuôi cấy ngọc trai.

Để con ngọc trai Việt Nam có thương hiệu quốc gia, phát triển bền vững và tương xứng với tiềm năng, cần tạo ra mô hình liên kết chặt chẽ trong quá trình phát triển sản xuất giữa doanh nghiệp nuôi cấy ngọc trai với ngư dân, nhà khoa học, ngân hàng thương mại. Cách làm này sẽ đem lại lợi ích cho các nhà liên kết trong việc phân chia lợi nhuận, quản lý được chất lượng sản phẩm, giá cả đầu vào và đầu ra, bảo đảm phát triển có kế hoạch, kiểm soát được dịch bệnh.

Chúng ta còn lúng túng chưa lựa chọn được đối tượng nuôi phù hợp những diện tích nước mặn, mặt nước ngọt còn hoang hóa. Trong khi mặt nước này rất phù hợp cho nuôi trai lấy ngọc. Nhưng, ngọc trai lại không được các ngành chức năng coi là đối tượng chủ lực. Và vì thế, dường như không có cơ chế gì hỗ trợ.

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ ấm áp quanh năm. Nhiệt độ không khí trung bình hằng năm ở miền Bắc (Quảng Ninh) là 22,7 độ C, Trung bộ (Đà Nẵng) 25,7 độ C, Nam Trung Bộ (Bình Định) 27,1 độ C, Phú Quốc (Kiên Giang) 27,2 độ C. Trai nuôi sinh trưởng đều các mùa vụ, tốc độ tạo ngọc nhanh, có thể cấy ngọc quanh năm, thuận lợi phát triển nghề nuôi cấy ngọc trai thành một ngành công nghiệp.

Nông Nghiệp Việt Nam, 08/12/2016
Đăng ngày 09/12/2016
Minh Phúc
Nuôi trồng

Vấn đề tồn tại lớn của EHP: Không có thuốc đặc trị, khó loại bỏ hoàn toàn mầm bệnh

Trong những năm gần đây, ngành nuôi nuôi tôm đã chứng kiến sự gia tăng nghiêm trọng của các bệnh gây thiệt hại lớn, trong đó có bệnh do EHP. Hai vấn đề tồn tại lớn nhất của bệnh EHP là không có thuốc đặc trị và khó loại bỏ hoàn toàn mầm bệnh. Những thách thức này đang khiến ngành nuôi tôm gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát và phát triển bền vững.

Tôm
• 11:36 27/12/2024

Xác định khẩu phần ăn phù hợp theo giai đoạn phát triển của tôm

Tôm là loài động vật thủy sinh có nhu cầu dinh dưỡng thay đổi tùy theo từng giai đoạn phát triển. Để đạt được năng suất cao, người nuôi cần hiểu rõ và xác định khẩu phần ăn phù hợp với mỗi giai đoạn của tôm. Điều này không chỉ giúp tôm tăng trưởng tốt mà còn tối ưu hóa chi phí thức ăn, cải thiện tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR), và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường ao nuôi.

Tôm thẻ
• 10:45 27/12/2024

Phân tích tác động kinh tế và môi trường của việc loại bỏ kháng sinh

Kháng sinh đã được sử dụng phổ biến để phòng và điều trị bệnh cho vật nuôi, từ đó nâng cao năng suất và giảm rủi ro dịch bệnh. Tuy nhiên, việc lạm dụng kháng sinh đã dẫn đến nhiều vấn đề nghiêm trọng, bao gồm nguy cơ kháng kháng sinh, ô nhiễm môi trường, và ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Tôm thẻ
• 09:49 26/12/2024

Thuần hóa tôm giống trước khi thả

Thuần hóa tôm giống trước khi thả vào ao nuôi là một trong những bước quyết định sự thành bại của vụ nuôi. Quá trình này không chỉ giúp tôm thích nghi với môi trường mới mà còn tăng khả năng sinh trưởng và giảm tỷ lệ hao hụt trong giai đoạn đầu. Để đảm bảo thành công, người nuôi cần nắm rõ các bước và áp dụng phương pháp phù hợp.

tôm giống
• 10:10 24/12/2024

Vấn đề tồn tại lớn của EHP: Không có thuốc đặc trị, khó loại bỏ hoàn toàn mầm bệnh

Trong những năm gần đây, ngành nuôi nuôi tôm đã chứng kiến sự gia tăng nghiêm trọng của các bệnh gây thiệt hại lớn, trong đó có bệnh do EHP. Hai vấn đề tồn tại lớn nhất của bệnh EHP là không có thuốc đặc trị và khó loại bỏ hoàn toàn mầm bệnh. Những thách thức này đang khiến ngành nuôi tôm gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát và phát triển bền vững.

Tôm
• 02:14 28/12/2024

Tép cảnh có thể nuôi chung với cá cảnh không? Những điều cần biết để tránh rủi ro

Tôm cảnh đang ngày càng trở thành lựa chọn yêu thích của những người đam mê thủy sinh nhờ vẻ đẹp sặc sỡ và khả năng làm sạch bể tự nhiên.

Tép cảnh
• 02:14 28/12/2024

Xác định khẩu phần ăn phù hợp theo giai đoạn phát triển của tôm

Tôm là loài động vật thủy sinh có nhu cầu dinh dưỡng thay đổi tùy theo từng giai đoạn phát triển. Để đạt được năng suất cao, người nuôi cần hiểu rõ và xác định khẩu phần ăn phù hợp với mỗi giai đoạn của tôm. Điều này không chỉ giúp tôm tăng trưởng tốt mà còn tối ưu hóa chi phí thức ăn, cải thiện tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR), và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường ao nuôi.

Tôm thẻ
• 02:14 28/12/2024

Những quốc gia dẫn đầu trong xuất khẩu tôm sinh thái

Ngành thủy sản thế giới đã chứng kiến những chuyển biến đáng kể trong xu hướng nuôi trồng và xuất khẩu tôm. Trong số những quốc gia nổi bật, Ecuador và Ấn Độ đang vươn lên dẫn đầu thị trường tôm sinh thái nhờ vào những bước đi mang tính chiến lược và sự đổi mới trong công nghệ nuôi trồng.

Thu hoạch tôm
• 02:14 28/12/2024

Chuyên gia nói gì về triển vọng nuôi tôm bền vững?

Ngành nuôi tôm từ lâu đã trở thành trụ cột kinh tế của Việt Nam, đặc biệt tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nơi chiếm tới 45% diện tích nuôi tôm của cả nước.

Ao tôm
• 02:14 28/12/2024
Some text some message..