Giáp xác chân chèo Copepoda (Pseudodiaptomus annandalei) được xem là một mắt xích quan trọng trong chuỗi thức ăn, chủ yếu ăn thực vật phù du và là nguồn thức ăn quan trọng của nhiều loài động vật thủy sinh. Copepoda được chú trọng sử dụng làm thức ăn trong sản xuất giống các loài thủy hải sản do có giá trị dinh dưỡng cao, chứa nhiều acid amin và các acid béo thiết yếu, hàm lượng protein tương đối cao, đồng thời hàm lượng enzyme tiêu hóa và vitamin cũng cao nên rất thích hợp cho nhu cầu dinh dưỡng của ấu trùng các loài động vật thủy sản (Lavens & Sorgeloos, 1996). Mặt khác, do copepoda di chuyển theo hình zigzag nên ấu trùng các loài động vật thủy sản dễ dàng phát hiện ra chúng; bên cạnh đó vòng đời copepoda trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ nauplius, copepodite đến copepoda trưởng thành nên có nhiều kích cỡ khác nhau có thể cung cấp làm thức ăn cho ấu trùng tôm cá ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Mật độ của loài này trong các ao tôm cá và vùng nước lợ có thể lên đến hơn 300 cá thể/lít nước và là nguồn thức ăn chính của các loài ấu trùng tôm cá.
Loài giáp xác chân chèo được cho là thức ăn sống quan trọng trong nuôi trồng thủy sản (Doi et al., 1997). Tuy nhiên, nguồn copepoda vẫn chủ yếu thu từ tự nhiên và biến động do bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên liên quan đến yếu tố nhiệt độ và độ mặn. Ở Việt Nam, các nghiên cứu bước đầu về đặc điểm sinh học làm cơ sở cho nuôi sinh khối loài này mới được thực hiện trong những năm gần đây và chưa có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của môi trường đến tỉ lệ sống của loài này. Trong các yếu tố môi trường, nhiệt độ là một yếu tố vô sinh quan trọng ảnh hưởng đến sinh trưởng và sinh sản của nhiều loài copepoda (Milione and Zeng, 2008).
Do vậy, thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ lên sinh trưởng và sinh sản của loài copepoda là cần thiết. Nghiên cứu này nhằm chỉ ra nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng và sinh sản của loài copepoda, góp phần xây dựng quy trình nuôi sinh khối làm thức ăn sống giúp nâng cao tỷ lệ sống và chất lượng con giống trong sản xuất giống các loài cá biển có giá trị kinh tế.
Phương pháp thí nghiệm
Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của nhiệt độ lên sự phát triển quần thể P. annandalei:
Bố trí 1500 P. annandalei cái mang trứng đưa vào nuôi trong 3 bình có độ mặn 20 ppt/bình. Sau 30 giờ lọc giữa lại nước có naupli mới nở. Quần thể P. annandalei sẽ được nuôi cho tới khi tất cả đạt giai đoạn trưởng thành trong 3 nhiệt độ 25, 30 và 34 ºC.
Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của nhiệt độ lên tỷ lệ sống, sức sinh sản và đánh giá tỷ lệ nở, số naupli nở ra/copepoda P. annandalei
P. annandalei cái mang trứng được cho đẻ tương tự như thí nghiệm 1 để thu naupli. Lọc thu naupli và bố trí với ba nhiệt độ 25, 30, 34ºC. Copepoda được nuôi trong cốc cho tới khi trưởng thành. Copepoda trưởng thành được sử dụng để bố trí xác định các thông số như: tỷ lệ sống, sức sinh sản, tỷ lệ nở.
Thức ăn nuôi copepoda P. annandalei là tảo Isochrysis galbana với mật độ cho ăn là 60.000-65.000 tế bào/ml ngày 1 lần.
Kết quả
Nhiệt độ ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh sản của copepoda P. annandalei. Quần thể copepoda P. annandalei nuôi ở nhiệt độ 30ºC trưởng thành hoàn toàn ở ngày tuổi thứ 9 sớm hơn 1 ngày so với quần thể ở 34ºC và 2 ngày so với quần thể nuôi ở 25ºC.
Trong điều kiện thí nghiệm (25ºC, 30ºC, 34ºC) thì kích thước copepoda P. annandalei giảm, thời gian phát triển và tuổi thọ ngắn hơn khi nhiệt độ nuôi tăng. Nhiệt độ 34ºC cho kết quả về tỷ lệ sống và các chỉ tiêu sinh sản của copepoda P. annandalei là thấp nhất. Trong khi nhiệt độ 30ºC được cho là thích hợp nhất cho sinh sản của loài copepoda P. annandalei với 178,1±3,56 naupli trong 10 ngày nuôi.
Giáp xác chân chèo là một trong những loài quan trọng trong hệ sinh thái ven bờ biển Việt Nam nên nghiên cứu thực nghiệm này góp phần xây dựng cơ sở khoa học vào sinh sản copepoda P. annandalei tạo ra nguồn thức ăn dồi dào cho động vật thủy sản.
Theo Đoàn Xuân Nam và cộng sự