Ngày bé tôi ngụ tại một xóm nhỏ, nằm dài trên bờ sông Bạc Liêu. Đó là cái xóm nghèo, lưa thưa những mái lá và hiu hắt buồn mỗi khi chiều xuống. Xóm có tên Bờ Xáng vì nằm trên cái bờ cao, do gần 100 năm trước người Pháp đào mở rộng sông Bạc Liêu đắp thành. Nhà cửa xóm đồng loạt hướng ra mặt sông, vì cho đến thập niên 80 của thế kỷ 20, sông là mặt tiền.
Sông Bạc Liêu là một con sông dài, nối liền các tỉnh. Tại triền sông của nó là các chi lưu gồm những sông nhỏ, kênh rạch… dày đặc, lan toả như mạng nhện trên khắp dãy đất tỉnh Bạc Liêu. Đặc biệt sông Bạc Liêu còn nối liền các cửa biển lớn, cá tôm của Biển Đông nổi tiếng và hào phóng đã xâm nhập đất liền bằng con đường này. Tôi nhớ sông Bạc Liêu chảy rất xiết, bên lở bên bồi và dưới làn nước đục ngầu phù sa là tôm cá nhiều không sao kể xiết. Hồi bảy, tám tuổi tôi còn chèo xuồng bơi đua với cá nược.
Những năm chiến tranh ác liệt, không làm ruộng được, dân Bờ Xáng đánh bắt tôm cá mà sinh sống. Mỗi một gia đình tuỳ vào khả năng, kinh nghiệm của mình mà tìm lấy một nghề. Sau những năm thất mùa và chạy giặc, gia sản nhà tôi chỉ còn lại chiếc xuồng tam bản, ba tôi đã giong xuồng ra sông cùng với tấm đăng tre để hành nghề đăng cá. Mỗi lần tiếng bìm bịp dội rền mặt sông báo hiệu nước nhửng lớn là ba tôi bơi xuồng vào một ngọn rạch ven sông Bạc Liêu, dùng tấm đăng tre kéo ngang hàn kín miệng rạch. Cứ thế, chờ nước sông Bạc Liêu ròng sát, nước rút lòi lòng lạch mà bắt tôm, cá. Có những con tôm to bằng nắm tay, những con cá lăng, cá ngát 2 – 3kg, kể cả mấy con cá chẻm nặng 7 – 8kg. Tôi và má tôi lựa cá to chèo xuồng vào chợ Bạc Liêu bán cho vựa, còn cá vụn thì bà gánh bán ở xóm Cả Vĩnh, Sóc Đồn… Hồi đó cá tôm rất rẻ, một xuồng bán đủ mua 1kg mỡ, một tĩn nước mắm, mấy lít dầu lửa và vài chục ký gạo… Ba tôi lặn ngụp dưới sông suốt đêm, má tôi gánh cá bán suốt ngày mới nuôi nổi chúng tôi.
Đến mùa gió bấc về thì tôi lấy lưới giăng cá chẻm, cũng là giăng dưới sông trước nhà thôi. Đó là những đêm bình yên hiếm hoi của chiến tranh, trong ánh trăng thanh khiết của rằm tháng chạp và trong một tiết trời có gió tết lành lạnh, tôi bơi xuồng đi thăm lưới, những con cá chẻm to 5 – 7kg mắc lưới quẫy nước mặn làm nổi lân tinh trắng xoá. Rồi tôi làm một số nghề khác nữa như đi móc cua, chĩa nhái… ở ven sông. Mới sáu, bảy tuổi tôi đã xuống sông Bạc Liêu kiếm ăn trước khi cắp sách đến trường. Tôi đã cùng gia đình dựa vào sông Bạc Liêu để sống khắc khoải mà vượt qua được những năm khốn nạn ấy.
Láng giềng của tôi cũng thế, cứ xuống sông Bạc Liêu mà kiếm sống. Bác Út Sinh thì làm nghề đánh lưới cá úc. Ông đi trên chiếc xuồng to, đục đáy. Tay lưới của ông rất dài, có thể hàn kín cả dòng sông. Vào lúc con sông Bạc Liêu nhửng lớn là lúc Bác Út thả lưới. Cá úc có tập tính là đi thành bầy, vào lúc nước giao hoà giữa ròng và lớn, thả xong lưới tới bờ bên kia bác Út ngồi trên sạp ghe, hút vừa tàn điếu thuốc là ông trở lại bên này sông để dỡ lưới. Ông dỡ đến đâu là cá úc “dính nẹo” đến đó. Một “vác” lưới của ông có thể gỡ cả trăm ký cá úc. Cá úc không to, chỉ bằng cườm tay, đem kho tương ăn tuyệt vời lắm.
Anh Sáu Đực thì làm nghề đóng đáy trên sông Thào Lạng. Hồi đó cá kèo nhiều kinh khủng, vào những con nước rong từ giữa mùa mưa đến tết là cá kèo ở những biền, trảng của cánh đồng hoang lũ lượt kéo ra sông. Chủ đáy phải ngồi canh, nếu đổ đụt trễ, cá vào đáy nhiều làm sập cột đáy và xé rách miệng đáy như chơi. Một đụt đáy có khi đổ ra một xuồng tam bản cá kèo. Thu hoạch một con nước không có lu hũ nào chứa cho nổi, phải đào hầm mà rộng cá. Nhưng hồi đó cá kèo bán rẻ lắm, nên thu không được bao nhiêu tiền.
Cái nghề mà gần như cả xóm cùng làm là chất chà. Hồi đó những đống chà được bố trí ven sông dày đặc, đến nỗi người nơi khác cứ gọi xóm tôi là Xóm Chà. Nghề chất chà bắt đầu từ khi gió chướng sồng (*) thổi cho đến khi gió Nam về mang theo những đám mưa đầu mùa của năm sau. Mỗi nhà chất vài đống chà, họ cào sình non trên bãi sông thành một lõm sâu rồi chất những nhánh cây bần, mắm vào, ngang 10m dài 20m. Đến nửa tháng sau, khi thấy tôm cá ăn móng trong chà nhiều thì dùng đăng tre hoặc lưới bao ví xung quanh, sau đó dỡ chà lên bờ hết rồi ba, bốn người lặn “rạn” đăng, lưới vào thành một cái rọ nhỏ khoảng 5m2 rồi cứ thế mà dùng vợt xúc cá. Loại cá nhiều nhất là cá thát lát, một đống chà thu cả xuồng, kế đến là tôm càng, sau mới là cá lóc, cá chẻm, cá ngát, cá đối… Có một loại cá ngày nay là đặc sản, mỗi ký đến 400.000 đồng là cá mang ếch thì ngày xưa nhiều vô kể, bán không ai mua, cũng không ai thèm ăn.
Nghề chà làm cực lắm, cũng lệ thuộc vào thuỷ triều, có con nước xoay đến 1 – 2 giờ khuya mới ròng thì cũng phải dỡ chà vào lúc ấy. Mỗi lần dỡ chà cần đến năm, bảy thanh niên có sức, một nhà không làm nổi nên năm, bảy nhà luân phiên dỡ chà cho nhau. Những đêm cận tết, gió bấc về lạnh như cắt, chủ chà phải đốt một đống rơm trên bãi rồi lựa những con tôm càng to nhất lùi vào đó nướng trui, lại để sẵn một chai rượu đế, hễ lạnh chịu không nổi thì lên đó sưởi ấm và nhậu lai rai. Mùa dỡ chà là khúc sông làng tôi rộn ràng như vỡ chợ, lại có cả giọng hò và mấy câu vọng cổ hoà cùng tiếng bom rền pháo dội xa xa.
Sau tháng 4.1975, tuy chiến tranh kết thúc nhưng dân xóm Bờ Xáng phải đối diện với một nền kinh tế bao cấp vô cùng khó khăn… Thế là họ lại tiếp tục dựa vào sông Bạc Liêu mà sinh sống. Sông, rạch của hệ thống sông ngòi chằng chịt ở Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng… người ta đều sống như thế. Có biết bao làng xóm mang tên xóm chà, xóm đáy, xóm chài, xóm câu… Các nhà khảo cứu văn hoá nói rằng có một nền văn minh sông nước ở Nam bộ, thì đây: chính các làng xóm ven sông, cư dân của các triền sông đã tạo ra một đời sống sôi động trên sông nước, tạo ra phần hồn cho những dòng sông.
Còn tôi, đến năm 1976 rời khỏi xóm Bờ Xáng cơ cực để làm một chuyến đi dài, mải miết cho tới bây giờ. Thi thoảng tôi cũng có về nhưng về với tư cách một kẻ về thăm. Có những đêm xa quê tôi nằm thổn thức rồi chợt nghe tiếng sóng vỗ ở triền sông trong tiềm thức. Thế là tốc mùng ngồi dậy rồi ngơ ngác kiếm tìm như thể vừa nghe thấy tiếng quê hương. Thế là thảng thốt: mùa này là mùa chất chà dưới quê đây mà… Sau đó thì ngồi thần ra nhớ quê đến quắt lòng quắt dạ. Nhớ con sông quê bên lở bên bồi và những doi, những vịnh thật nhiều tôm cá. Nhớ những đêm tối trời đom đóm lập loè ở hai triền sông soi đường cho mình đi thả câu, giăng lưới. Nhớ đời cha mẹ, anh em mình nghèo xuống sông lặn hụp đi tìm miếng ăn như thân cò lặn lội đồng sâu. Giờ đây cha mẹ đã đi xa, anh em kẻ còn người mất, chỉ còn lại đó con sông quê như một nhân chứng và nó gợi thương gợi nhớ, nó xây đắp trong hồn tôi cái quê hương dịu dàng mà đầy ray rứt dù tôi có đi xa đến cuối đất cùng trời. Thế là không chịu được nữa, như mọi khi, tôi bỏ tất cả những công việc mà về lại với dòng sông, với quê cũ.
Quê cũ tôi bây giờ có thay đổi nhưng nhiều thứ vẫn như xưa, làng vẫn nằm trên bờ sông cũ và dòng sông vẫn bên lở bên bồi, những doi, những vịnh. Xóm Bờ Xáng bây giờ chỉ còn duy nhất vợ chồng em gái tôi xuống sông Bạc Liêu kiếm ăn vặt. Bãi sình đôi bờ sông không thấy một đống chà nào nữa cả. Tên gọi Xóm Chà đã mất trong trí nhớ của con người từ lâu lắm. Cũng không còn ai xuống sông giăng câu thả lưới… Một điều lạ là bây giờ toàn bộ nhà của xóm cất xoay mặt lên bờ, sông trở thành mặt hậu chứ không phải mặt tiền như xưa. Bây giờ con người đã xoay lưng lại với dòng sông, vì nó không còn mang lại lợi ích như xưa. Các bến sông rộn ràng của ngày xưa giờ bần, mắm, dừa nước mọc kín. Đi trên sông rất lâu mới thấy được một cái mặt sau của nhà ai đó, sông trở nên hoang vắng, lạnh tanh và vô hồn.
Chiều, tôi bắc ghế ngồi nhìn ra sông. Ráng chiều phả lên mặt sông màu tím thẫm như trải lên đó một nỗi buồn u uẩn. Rồi nước nhửng lớn, tiếng bìm bịp dội rền mặt sông nghe âm u trầm uất lạ. Tôi lừ mắt nhìn ra sông, bỗng thấy thấp thoáng đời sống rộn ràng của sông 30 – 40 năm trước, thấy cái bóng má tôi chèo xuồng mang cá ra chợ bán để mua cho tôi một bộ đồ vải sọc mặc tết… Thế là tôi ứa nước mắt. Dòng sông đã gọi lại những ký ức để tôi yêu quý quê cha đất mẹ đến thế này đây.
Làm cạn kiệt nguồn lợi thuỷ sản trên sông rạch là chúng ta tự kết liễu cội nguồn sinh ra đời sống sông rạch, văn hoá triền sông. Chúng ta đã và đang lấy đi ký ức đáng nhớ của nhiều thế hệ sau này về các dòng sông của họ, làm cho cái quê hương trong họ nhạt nhoà và rồi sẽ mất dần tình yêu quê hương của hàng triệu người vốn có gốc rễ từ các dòng sông ấy.
Ngàn đời tiếng sóng vỗ triền sông vẫn thế. Đó là khúc hát thiên nhiên mà sâu thẳm tình đời.