Vì vậy, trong quá trình nuôi, người nuôi đã bổ sung một lượng nhỏ Canthaxanthin/Astaxanthin vào thức ăn để tạo ra màu sắc của sản phẩm được người tiêu dùng ưa thích.
Canthaxanthin là sắc tố thuộc nhóm Carotenoid, được tổng hợp từ 2 nguồn là sinh tổng hợp và hóa tổng hợp. Sản phẩm sinh tổng hợp và hóa tổng hợp được nhiều quốc gia trên thế giới cho phép sử dụng trong NTTS và chăn nuôi. Tuy vậy, các sản phẩm Canthaxanthin sinh tổng hợp được ưa chuộng hơn do có mức độ an toàn cao với động vật nuôi và ít ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng.
Một trong những nguồn Canthaxanthin thiên nhiên lần đầu tiên được phân lập từ một loài nấm ăn được Cantharellus cinnabarinus (Haxo, 1950). Canthaxanthin cũng được sản xuất như carotenoid thứ cấp từ một số loài tảo xanh ở pha cuối của giai đoạn tăng trưởng. Nó cũng đã được tìm thấy trong vi khuẩn, một số loài giáp xác và các loài cá khác nhau bao gồm cá đối vàng Mugil auratus và cá tráp Diplodus annularis.
Canthaxanthin/Astaxanthin vào thức ăn để tạo ra màu sắc của sản phẩm được người tiêu dùng ưa thích.
Bổ sung Canthaxanthin vào thức ăn nuôi cá hồi, tôm tạo nên màu sắc đỏ hồng cơ thịt và màu sắc sặc sỡ của cá cảnh. Làm tăng chất lượng trứng và tỷ lệ sống của cá bột của cá hồi vân, cá tráp đỏ và cá cam. Như vậy, Canthaxanthin không những có vai trò quan trọng trong dinh dưỡng động vật thủy sản mà còn góp phần tạo nên màu sắc đỏ, làm tăng giá trị thương mại và giá trị thẩm mỹ của sản phẩm thủy sản.
Một nghiên cứu mới đây của Samia Fawzy và cộng sự cho thấy canthaxanthin đóng vai trò quan trọng trong quá trình chống oxy hóa và cải thiện màu sắc trên tôm thẻ chân trắng.
Nghiên cứu này đã đánh giá tác động của canthaxanthin (CX) đối với hiệu suất tăng trưởng, tỷ lệ sống, khả năng chống chịu căng thẳng, phản ứng miễn dịch và sắc tố của tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương được cho ăn chế độ ăn có bổ sung 5 mức (CX) trong chế độ ăn có chứa 0, 50, 100, 200 và 400 mg kg-1 trong vòng 8 tuần.
Kết quả cho thấy hiệu suất tăng trưởng, tỷ lệ sống và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn được cải thiện đáng kể ở các nghiệm thức bổ sung CX so với đối chứng. Màu đỏ của tôm chín có xu hướng tăng khi tăng nồng độ CX; tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát giữa các phương pháp điều trị nhận được CX hơn 100 mg/kg -1 .
Hoạt động của các enzyme tiêu hóa , tổng khả năng chống oxy hóa và peroxidase tăng lên đáng kể ( P <0,05), trong khi hoạt động của glutathione peroxidase , catalase và malondialdehyd giảm đáng kể ( P <0,05) trong gan tụy khi tăng mức CX trong chế độ ăn uống.
Các enzyme liên quan đến miễn dịch (alkaline phosphatase, lysozyme , alanine aminotransferase và aspartate aminotransferase) và các thông số sinh hóa tan máu (cholesterol, lipoprotein mật độ cao và mật độ thấp) bị ảnh hưởng đáng kể bởi các mức CX trong chế độ ăn uống khác nhau.
Canthaxanthin không những có vai trò quan trọng trong dinh dưỡng động vật thủy sản mà còn góp phần tạo nên màu sắc đỏ.
Tổng hàm lượng carotenoid và astaxanthin trong cơ, vỏ, đầu và toàn bộ cơ thể tôm cho thấy xu hướng tăng lên khi tăng CX trong khẩu phần ăn. Sau khi tiếp xúc với tình trạng thiếu oxy, tôm ở nghiệm thức bổ sung 200 mg / kg thể hiện giá trị LT50 cao nhất trong số tất cả các nghiệm thức. Hơn nữa, phân tích hồi quy đường gãy chỉ ra rằng liều từ 173,73 đến 202,13 mg kg -1 CX phù hợp trong chế độ ăn của L. vannamei như một nguồn carotenoid tiềm năng để thay thế astaxanthin trong thức ăn cho tôm.
Tóm lại, kết quả của chúng tôi đã chứng minh việc bổ sung canthaxanthin nồng độ 200 mg / kg trong chế độ ăn uống có thể đạt được hiệu suất tăng trưởng và màu sắc tốt hơn. Hơn nữa, việc bổ sung canthaxanthin trong chế độ ăn uống có thể làm tăng khả năng chống oxy hóa và điều chỉnh sự biểu hiện của các gen liên quan đến phản ứng miễn dịch và khả năng chịu đựng căng thẳng của L. vannamei .