Hàng năm, các tỉnh khu vực miền Bắc thường phải trải qua mùa đông khắc nghiệt; trở ngại này khiến hầu hết các trang trại không thể tiến hành sinh sản nhân tạo cá giống. Vì vậy, vào vụ cá đầu năm, người nuôi thường phải mua con giống từ miền Nam chuyển ra. Tuy nhiên, chất lượng cá giống không ổn định và chi phí tốn kém do vận chuyển, do đó, các hộ nuôi với quy mô lớn không thể chủ động kế hoạch sản xuất, lợi nhuận sau thu hoạch giảm đáng kể.
Hình thức nuôi
Nuôi trong bể: Đối với những cơ sở có hệ thống bể trong nhà thì nên nuôi cá qua đông trong hệ thống bể. Khi đó, bể nuôi cần đảm bảo các điều kiện như: nguồn nước tốt, có sục khí, có hệ thống nâng nhiệt để duy trì nhiệt độ nước trong bể > 20oC. Những trại cá, tôm giống có hệ thống nhiệt cần chuẩn bị tẩy dọn các bể ương. Vào thời điểm tháng 1, có thể chuyển cá hương, cá giống các loại (rô phi, tôm càng xanh, cá chim trắng) ương dưới ao lên, đưa vào bể nâng nhiệt giữ thủy sản ở nhiệt độ khoảng 22 - 25oC với mật độ dày và có sục ôxy. Sau 2 tháng, có thể đem cá giống ra nhân nuôi hoặc bán cho người nuôi thương phẩm.
Nuôi trong ao: Nên chọn ao nuôi ở những khu vực khuất gió Đông Bắc, có cây cối hoặc nhà, đồi, núi che chắn, ao có diện tích 500 - 2.000 m2, độ sâu khoảng 2,5 - 3 m. Trước mùa đông cần thu hoạch hết cá giống và cá thịt phân loại để lưu giữ qua đông. Sau khi thu hoạch, tiến hành cải tạo ao, tát cạn, vét bớt bùn đáy, chỉ để lại lớp bùn sâu khoảng 15 - 20 cm. Xử lý ao bằng vôi bột, liều lượng khoảng 7 - 10 kg/100 m2 ao. Gia cố lại bờ ao cho chắc chắn, không bị rò rỉ và kiểm tra lại các cống cấp thoát nước để kịp thời sửa chữa. Sau đó, cấp nước vào ao. Kiểm tra đầy đủ các yếu tố môi trường để phù hợp cho sự phát triển và sinh trưởng của các đối tượng nuôi: pH > 7, ôxy hòa tan > 5 mg/l. Để phòng chống rét cho cá, người nuôi có thể dùng rơm, rạ cuộn thành từng bó cho xuống các góc ao để cá có chỗ trú. Với ao nhỏ, có thể dùng nilon phủ trên ao, tạo thành ngôi nhà chống rét cho cá giống.
Trong các môi trường khác: Ngoài ra, một số cơ sở có các biện pháp khác như nuôi trong giếng, nuôi trong hầm…
Thả cá
Sau khi cải tạo ao xong, gây màu nước tạo nguồn thức ăn là động thực vật phù du đối với ao nuôi cá giống. Trước khi thả, cần phân loại để thuận lợi cho việc chăm sóc và quản lý.
Thả cá vào những ngày thời tiết nắng ấm. Với cá giống cỡ 100 - 300 con/kg, tiến hành thả với mật độ 30 con/m2.
Thức ăn
Có thể cho cá giống ăn thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm 18 - 22% hoặc thức ăn tự chế với thành phần bột cá 10% + bột đậu tương 20% + bột cám gạo 70%. Lượng thức ăn dao dộng 1 - 1,5% trọng lượng cá trong ao. Tuy nhiên, quá trình nuôi, cần quan sát tình hình bắt mồi của cá, điều kiện thời tiết... để có những điều chỉnh cho phù hợp. Cho cá ăn vào lúc thời tiết ấm, thời gian thích hợp khoảng 10 - 14 giờ. Thực hiện cho ăn đảm bảo theo nguyên tắc 4 định: chất lượng, số lượng, thời gian, địa điểm. Ngừng cho cá ăn khi nhiệt độ nước xuống dưới 18oC.
Quản lý, chăm sóc
Trong suốt quá trình nuôi, duy trì mực nước 1,5 - 2 m. Đảm bảo có nguồn nước bổ sung ổn định, chủ động, thuận lợi cho việc cấp thoát nước. Hạn chế và tốt nhất là tuyệt đối không đánh bắt vận chuyển cá để tránh xây xát tăng nguy cơ nhiễm nấm, vi khuẩn.
Thường xuyên bổ sung premix, Vitamin C giúp tăng cường khả năng đề kháng để cá có đủ sức chống chịu rét.
Khi cần cấp nước thêm cho ao cá, người nuôi lưu ý đặt ống cấp nước vào góc ao để tránh xáo trộn tầng nước, ảnh hưởng đến cá giống.
Trong thời gian nuôi, thực hiện phòng bệnh cho cá 1 tháng/lần bằng các loại thuốc phòng theo hướng dẫn cụ thể trên bao bì. Thường xuyên sử dụng chế phẩm sinh học làm sạch nước cho ao nuôi.
Những ngày rét hại nếu có điều kiện, nên giữ cá giống trong các ao có độ sâu 3 m hoặc tạo các hố nước sâu 3m trong ao bằng khoảng 20% diện tích ao.
Bên cạnh đó, người nuôi cần theo dõi chặt chẽ các yếu tố môi trường, đảm bảo phù hợp với sự tồn tại và phát triển của các đối tượng nuôi.
Nhiệt độ thấp trong mùa đông cũng là nguyên nhân phát sinh dịch bệnh trên cá giống. Vì vậy, quá trình nuôi, cần định kỳ bón vôi bột khử trùng cho ao với liều lượng 1 kg/100 m3 để duy trì chất lượng nước, tiêu diệt và kìm hãm vi khuẩn gây bệnh.