Chồng chéo quy định quản lý khu bảo tồn biển

Tình trạng này dẫn đến hầu hết các hoạt động bảo tồn biển mới mang tính chất địa phương, chưa có hệ thống…

bảo tồn biển
Ảnh minh họa - tepbac.com

Trong những năm gần đây, vấn đề bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt là triển khai thiết lập các khu bảo tồn biển đã được Chính Phủ và các Bộ, Ngành quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay, mạng lưới các khu bảo tồn biển vẫn chưa được hình thành. Hầu hết các hoạt động bảo tồn biển mới mang tính chất địa phương, chưa có hệ thống mà nguyên nhân là do sự chồng chéo trong văn bản luật quy định về quản lý các khu bảo tồn biển.

Hiện cả nước có 5 khu bảo tồn biển độc lập và 4 khu bảo tồn thiên nhiên thuộc hệ thống rừng đặc dụng có hợp phần bảo tồn biển. Tuy nhiên, theo đánh giá của Tổng Cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: So với 5 khu bảo tồn biển độc lập thì 4 khu bảo tồn biển thuộc hệ thống 4 rừng quốc gia là Vườn Quốc gia Cát Bà (Hải Phòng), Vườn Quốc gia Núi Chúa (Ninh Thuận); Vườn Quốc gia Côn Đảo (Vũng Tàu), Vườn Quốc gia Bái Tử Long(Quảng Ninh) là được quản lý tốt.

Bởi 4 khu bảo tồn này nằm trong mạng lưới khu bảo tồn quốc gia nên nhận được nguồn kinh phí và tài trợ tốt từ Trung ương, địa phương và các tổ chức phi Chính phủ. Các khu bảo tồn này đều có bộ phận chuyên trách cho việc kiểm soát và tuần tra cả phần biển. 5 khu bảo tồn biển độc lập còn lại hiện đang được các địa phương quản lý nên gặp nhiều khó khăn.

Ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng Cục Thủy sản phân tích: “Khu bảo tồn biển, thực ra quản lý đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ hệ sinh thái của khu vực ấy. Việc chồng chéo quản lý gây nhiều khó khăn như kinh phí đầu tư không đồng bộ cho các khu bảo tồn biển vì mỗi địa phương có cách quản lý khác nhau. Việc không thống nhất như thế dẫn đến việc chỉ đạo điều hành cũng như là xây dựng các văn bản hướng dẫn thì cũng gặp nhiều khó khăn dẫn đến việc quản lý, giám sát gặp nhiều bất cập”.

Nguyên nhân vấn đề này là do chưa có sự thống nhất trong quản lý các khu bảo tồn biển từ Trung ương đến địa phương. Chính sự khác biệt trong quản lý các khu bảo tồn tại từng địa phương dẫn đến “mạnh ai nấy làm”. Trong khi đó, lại chưa có văn bản hỗ trợ tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật cho đầu tư xây dựng 1 khu bảo tồn biển cấp Quốc gia và cấp tỉnh. Nên khi các tổ chức quốc tế rút nguồn tài trợ thì 5 khu bảo tồn biển độc lập chỉ trông chờ ngân sách địa phương. Do thiếu nguồn kinh phí nên Ban quản lý các khu bảo tồn biển chỉ hoạt động cầm chừng; Lực lượng quản lý mỏng, kiêm nhiệm nhiều việc dẫn đến hiệu quả kém. Đồng thời, sự chồng chéo trong văn bản quy phạm pháp luật cũng khiến việc mở rộng các khu bảo tồn và quản lý gặp vướng mắc.

Ông Đỗ Ngọc Vinh, Chi Cục trưởng, Chi Cục biển và hải đảo Quảng Ngãi cho biết: “Vấn đề tôi quan tâm là việc tổ chức quản lý các khu bảo tồn biển. Hiện nay Luật thủy sản quy định về quản lý khu bảo tồn biển và luật đa dạng sinh học cũng quy định về quản lý bảo tồn biển. Như vậy, hai luật này quy định quản lý về măt chuyên ngành thì phải làm rõ việc rằng việc quản lý các khâu bảo tồn biển thì luật nào quy định và văn bản hướng dẫn luật nào, cụ thể chứ dừng để chồng chéo giữa 2 luật  thủy sản và đa dạng sinh học”.

Theo quy hoạch, từ năm 2010-2015 có 16 khu bảo tồn biển, chiếm 0,24% diện tích biển Việt Nam. Giai đoạn tiếp theo 2016-2020 sẽ tập trung vào mở rộng mạng lưới các khu bảo tồn biển Việt Nam, đảm bảo đến hết 2020 sẽ có trên 20 khu bảo tồn biển được thành lập và đi vào hoạt động.

Tiến sỹ Đoàn Quang Sinh, Giám đốc trung tâm đào tạo và truyền thông biển và hải đảo, Tổng cục biển và hải đảo Việt Nam cho rằng, để phát triển hệ thống khu bảo tổn biển bền vững, cần kiện toàn tổ chức quản lý khu bảo tồn biển theo hướng phân cấp nhiều hơn cho địa phương, tăng cường hỗ trợ kỹ thuật từ cơ quan Trung ương và tổ chức quốc tế. Nơi nào thuận lợi, có thể “ghép” các ban quản lý, tránh chồng chéo và phân tán nguồn lực để khai thác tốt hơn các lợi ích từ khu bảo tồn biển.

Tiến sỹ Đoàn Quang Sinh cho rằng: “Nhanh chóng, hoàn thiện và ban hành các văn bản pháp luật về việc xây dựng và quản lý các khu bảo tồn biển Việt Nam. Các văn bản này cần được hướng dẫn cụ thể, phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân Tuyên truyền để, vận động và tạo mọi điều kiện cho cộng đồng nhân dân tham gia bảo vệ các khu bảo tồn khi các lực lượng chuyên trách quản lý khu bảo tồn hiện này còn hạn chế".

Quy hoạch, quản lý hệ thống các khu bảo tồn biển Việt Nam nhằm bảo vệ, bảo tồn nguồn thủy sản, môi trường sinh thái biển là điều kiện để Việt Nam xây dựng thương hiệu biển và phát triển kinh tế biển bền vững. Vì vậy đưa ra cách thức quản lý khu bảo tồn biển thống nhất từ Trung ương đến địa phương là điều kiện để Việt Nam phát triển xứng tầm với các nước trong khu vực./

VOV - Trung tâm Tin
Đăng ngày 14/06/2013
Hải Yến
Môi trường

Việt Nam hướng đến ngăn ngừa rác thải ngư cụ

Chính phủ Đức đã tài trợ cho trường Đại học Ostfalia (Đức) phối hợp với các trường đại học và viện nghiên cứu của Việt Nam thực hiện Dự án REVFIN, đây là dự án nghiên cứu và phát triển mới nhằm ngăn chặn rác thải ngư cụ ở các vùng ven bờ biển Việt Nam.

Môi trường biển
• 10:34 09/12/2024

Ngành thủy sản Việt Nam trước những quy định mới của EU năm 2025

Liên minh châu Âu (EU) luôn là thị trường lớn và quan trọng với những sản phẩm thủy sản chủ lực như tôm, cá tra và cá ngừ từ Việt Nam. Tuy nhiên, từ năm 2025, EU sẽ áp dụng những quy định mới về bảo vệ môi trường đối với ngành thủy sản, yêu cầu các nhà xuất khẩu phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe hơn về chất lượng và sự bền vững. Đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội để nâng cao chất lượng sản phẩm, khẳng định thủy sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Môi trường ao nuôi
• 11:26 02/12/2024

Sử dụng men vi sinh trong nuôi trồng thủy sản

Men vi sinh (probiotic) là các vi sinh vật có lợi, khi được bổ sung vào môi trường nuôi trồng thủy sản, giúp cải thiện chất lượng nước, nâng cao sức khỏe của động vật thủy sản và hạn chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh.

Ao nuôi tôm
• 10:55 20/11/2024

Tổng hợp các phương pháp kiểm soát nguồn gốc chất thải

Kiểm soát nguồn gốc chất thải thủy sản đặc biệt là nuôi tôm là một khâu quan trọng trong quản lý chất thải, nhằm xác định nguồn phát sinh, loại chất thải, lượng chất thải và các thông tin liên quan khác. Các phương pháp này giúp chúng ta có những biện pháp xử lý và giảm thiểu chất thải hiệu quả hơn.

Nguồn gốc chất thải
• 09:42 14/11/2024

Vật chủ trung gian truyền bệnh EHP trên tôm

Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) lây truyền bệnh cho tôm chủ yếu xảy ra qua đường miệng bằng cách ăn phải bào tử các mô, trầm tích và nước bị ô nhiễm. Đồng thời chúng cũng được xác định có ở động vật không xương sống hoang dã như giun nhiều tơ, cua, động vật thân mềm và các loài động vật đáy khác như artemia, v.v. và chúng bị nghi ngờ là vật truyền mầm bệnh cho tôm giữa môi trường hoang dã và hệ thống nuôi.

Tôm thẻ chân trắng
• 05:07 12/12/2024

Tiếp tục tăng cường công tác phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý tình trạng tàu cá Bình Định

Trong thời gian qua một số tàu cá Bình Định (có chiều dài từ 12 mét đến dưới 15 mét thường xuyên làm nghề câu mực ở vùng biển phía Nam) có dấu hiệu, nguy cơ cao vi phạm vùng biển nước ngoài, nhất là vào thời gian cuối năm đến khoảng giữa năm sau, là mùa khai thác thuỷ sản chính (tàu cá Bình Định bị nước ngoài bắt giữ thường xảy ra trong khoảng thời gian này).

Tàu cá
• 05:07 12/12/2024

Phèn ngăn cản việc gây màu nước cho ao nuôi tôm

Trong nuôi tôm, việc gây màu nước là một bước quan trọng để tạo môi trường lý tưởng cho sự phát triển của tôm.

Ao tôm phèn
• 05:07 12/12/2024

Hiệp hội Cá tra kiến nghị 6 giải pháp phát triển

Giá cá tra nguyên liệu ở một số địa phương ĐBSCL đang tăng lên 29.000-30.000 đồng/kg giúp người nuôi có lời. Tuy nhiên, nhiều tháng qua giá bán chỉ 27.000 – 28.000 đồng/kg (cỡ 0,75 – 0,95 kg/con) trong lúc giá thành sản xuất 26.000 – 27.000 đồng/kg khiến bất ổn kéo dài nên Hiệp hội Cá tra Việt Nam vừa kiến nghị 6 giải pháp để phát triển bền vững.

Cá tra
• 05:07 12/12/2024

Tạo màu nước trong ao để chuẩn bị sang tôm

Việc tạo màu nước trong ao là một bước quan trọng để chuẩn bị môi trường sống tối ưu trước khi tiến hành sang tôm. Màu nước không chỉ là yếu tố thẩm mỹ mà còn thể hiện chất lượng môi trường ao nuôi. Một màu nước ổn định và phù hợp có thể giúp giảm căng thẳng cho tôm, duy trì hệ sinh thái tự nhiên và ngăn ngừa sự phát triển của các loại vi khuẩn hay sinh vật có hại.

Ao nuôi tôm
• 05:07 12/12/2024
Some text some message..