Với số lượng ngày càng tăng của sản lượng cá được sản xuất trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn RAS - dù cá con hay nuôi thương phẩm - đã đến lúc ngành này có các cơ sở RAS, thay vì các cơ sở truyền thống, để thực hiện các thử nghiệm nghiên cứu dịch bệnh theo ý mình.
Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn được đánh giá là một trong các giải pháp nuôi trồng thủy sản bền vững, với đặc điểm nước thải thoát ra từ bể nuôi được lọc cơ học để loại bỏ chất thải rắn, lọc sinh học, khử khí CO2, cấp thêm oxy và diệt khuẩn bằng UV hoặc ozone, sau đó bơm tuần hoàn về bể nuôi. Ảnh minh họa: derwentgroup.
Viện Nghiên cứu Thực phẩm, Thủy sản và nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản Na Uy (Nofima) phối hợp với Trạm Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản Tromsø và Đại học Arctic để thành lập các cơ sở thử nghiệm RAS hoàn toàn mới nhằm cung cấp nhiều nghiên cứu phù hợp hơn cho ngành công nghiệp RAS, đặc biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu bệnh tật.
Các mô hình lây nhiễm là công cụ quan trọng trong nghiên cứu sức khỏe cá và các mô hình này phải giống với điều kiện thực tế của hoạt động nuôi trồng thủy sản. Hiện tại, các cơ sở RAS chiếm ưu thế trong sản xuất cá hồi, do đó các mô hình lây nhiễm đã được đánh giá lại và điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống RAS.
Gần đây, các thử nghiệm lây nhiễm đầu tiên đã được Nofima thực hiện tại cơ sở mới. Kết luận sau các thí nghiệm đầu tiên là các mô hình lây nhiễm hoạt động rất tốt và các thử nghiệm trong hệ thống RAS có thể được thực hiện trong thời gian ngắn hơn so với các thử nghiệm được thực hiện trong hệ thống dòng chảy.
Các giao thức mới
“Trong các thử nghiệm RAS, chúng tôi đã mô phỏng cách vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào các cơ sở RAS. Điều này cho phép nghiên cứu cách thức bệnh phát triển trên cá, đồng thời có thể điều tra cách thức và vị trí mầm bệnh tự hình thành và lây lan khắp hệ thống, ”Carlo C Lazado, nhà khoa học cấp cao tại Nofima cho biết.
Trong các báo cáo trước đây, Nofima đã chỉ ra rằng nhiều cơ sở RAS ở Na Uy và Bắc Mỹ có các quy trình khử trùng, nhưng không rõ hiệu quả của những quy trình này nếu mầm bệnh như virus và vi khuẩn xâm nhập vào hệ thống.
Lazado cho biết: “Một số thử nghiệm được tiến hành trong cơ sở RAS mới sẽ cung cấp cho chúng tôi kiến thức về các khu vực quan trọng trong hệ thống, nơi mầm bệnh có khả năng phát triển mạnh. Kiến thức này sẽ rất quan trọng trong việc phát triển các quy trình đánh giá rủi ro trong RAS và quy trình khử trùng có hiệu quả sau khi dịch bệnh bùng phát.”
Carlo C. Lazado, nhà khoa học cấp cao tại Viện Nghiên cứu Thực phẩm, Nghề cá và Nuôi trồng Thủy sản Na Uy. Ảnh: clazado.wixsite.com.
Tăng tốc và tinh chỉnh quá trình
Cơ sở RAS ở Tromsø là cơ sở đầu tiên thuộc loại hình này nơi thử nghiệm vi khuẩn có kiểm soát nhiễm trùng này trên cá hồi đã được báo cáo.
Lill-Heidi Johansen, nhà khoa học sức khỏe cá tại Nofima cho biết: “Gần đây khi chúng tôi tiến hành một cuộc thử nghiệm với mầm bệnh Yersinia ruckeri và thấy rằng bệnh phát triển nhanh hơn so với các hệ thống dòng chảy. Cá cũng dễ bị nhiễm bệnh thử nghiệm ở một giai đoạn khác trong chu kỳ sản xuất so với những gì chúng tôi đã quan sát trước đây. Điều này cung cấp sự linh hoạt hơn trong các thử nghiệm nhiễm trùng. Ngoài ra, chúng tôi sẽ kiểm tra sự lây nhiễm vi rút trong hệ thống để xem liệu các xu hướng tương tự có được quan sát hay không”.
Các chiến lược khử trùng đã đóng một vai trò quan trọng trong các thử nghiệm đã diễn ra từ trước cho đến nay. Đây là những yếu tố quan trọng để thiết lập các quy trình khử trùng ở cơ sở RAS và là cách để quản lý các đợt bùng phát dịch bệnh.
Nguồn: Facility improves disease research in RAS, The Fish Site, Disease, 10/10/2021