Nhìn chung, nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy OsHV-1 liên kết với các hạt có đường kính lớn hơn 5 µm và nhỏ hơn 55 µm, liên kết với một loạt các chất (như nylon, polyethylene,…). Trong khi các bằng chứng về dịch tễ học, sự lây truyền bệnh qua thực nghiệm và các bằng chứng vật lý trong phòng thí nghiệm cho thấy khả năng cao OsHV-1 gắn vào các hạt trong nước biển, vi rút cũng có thể tồn tại trong các mảnh mô được giải phóng từ vật chủ bị bệnh dưới dạng tập hợp các hạt vi rút và dưới dạng các hạt vi rút tự do. Đây là trường hợp xảy ra ngay sau khi vi rút được giải phóng khỏi các tế bào hàu bị nhiễm bệnh và trước khi nó gắn vào các hạt vectơ, cho phép chu trình truyền nhiễm tiếp tục.
Thời gian lây nhiễm của vi rút OsHV-1 trong nước biển là giới hạn và phụ thuộc vào nhiệt độ. Xét nghiệm sinh học đối với ấu trùng hàu C. gigas cho thấy OsHV-1 bị bất hoạt trong nước biển sau 2 ngày ở 20℃. Nó cũng dễ bị bất hoạt bởi bức xạ tia cực tím và nhiều hóa chất. Những thông tin này kết hợp với kiến thức trên rằng vi rút thường gắn vào các hạt, giúp củng cố khả năng dùng quy trình xử lý nước để bảo vệ hàu khỏi vi rút này.
Nhiều vi rút herpes OsHV-1 trong nhân tế bào mô tim từ hàu C. gigas.
Các lựa chọn để xử lý nước biển bao gồm lắng, lọc và khử trùng. Ba phương pháp này đã được thử nghiệm trong các thí nghiệm có kiểm soát. Theo phương pháp lắng, nước biển tự nhiên bị nhiễm OsHV-1 được lắng cặn và bất hoạt vi rút trong 2 ngày. Đối với phương pháp lọc, nước biển được lọc qua màng có kích thước. Lưu ý rằng, các bộ lọc có kích thước 30 µm hoặc 55 µm không hiệu quả, vì tỷ lệ chết do OsHV-1 vẫn xảy ra ở ấu trùng ương trong nước sau lọc của các bộ lọc đó. Những phát hiện về lắng và lọc nước này đã được thông qua và áp dụng thành công trong các trại ương quy mô công nghiệp thương mại để sản xuất ấu trùng hàu Thái Bình Dương ở cả Úc và New Zealand.
Phát hiện gần đây rằng sử dụng siêu lọc (kích thước màng lọc 0,02 µm) với nước biển bị nhiễm OsHV-1 giúp ngăn ngừa tỷ lệ chết của C. gigas, qua đó cung cấp một lựa chọn khác để xử lý nước. Giống như phương pháp lọc thông thường (5 µm) và lắng cặn, siêu lọc không loại bỏ hoàn toàn OsHV-1 khỏi nước biển nhưng đủ để giảm liều lượng lây nhiễm xuống dưới ngưỡng gây bệnh khi tiếp xúc với hàu.
Có một câu hỏi quan trọng về hiệu quả chi phí và tính thực tiễn về việc lựa chọn phương pháp lọc nước biển an toàn cho sản xuất C. gigas và các loài động vật có vỏ khác. Đối với một số mầm bệnh như vi khuẩn, nhiều nguồn ô nhiễm ngoài nước biển phải được xác định và một số phương pháp như lọc thông thường có thể không hiệu quả.
Để có được an toàn sinh học đầy đủ đối với các mầm bệnh vi rút như OsHV-1, và giảm thiểu nhu cầu xử lý kháng sinh, có thể dẫn đến kháng kháng sinh trong các trại giống, việc xử lý nước biển đầu vào và nước xả thải phải được đảm bảo. Câu hỏi đặt ra là, sự kết hợp/trình tự nào sẽ được khuyến nghị? (i) lắng cặn, (ii) lọc thô (lọc cát), (iii) lọc tinh (1 hoặc 5 µm), (iv) siêu lọc (0,2 µm), (v) bức xạ tia cực tím và (vi) khử trùng bằng hóa chất (ozone, clo, khác).
Các quy trình này có thể áp dụng cho các hệ thống ương khép kín (tuần hoàn) và nửa hở sử dụng lượng nước biển tương đối thấp. Tuy nhiên, phương pháp này không thể dùng trong các hệ thống sản xuất hàu cỡ lớn do lượng nước sử dụng rất lớn, và những con hàu non rất dễ bị nhiễm bệnh do thả nuôi trong hệ thống mở. Do đó, hàng chục triệu cá thể hàu vẫn dễ bị tổn thương ở các trang trại cửa sông. Một điều cần cân nhắc thêm đối với các trại giống là tác động tiêu cực đến dinh dưỡng và tăng trưởng của hàu khi thức ăn có trong nước biển tự nhiên bị loại bỏ bằng cách xử lý nước công nghiệp.
Tham khảo phần 1: Tổng quan vi rút Ostreid herpes 1 (OsHV-1)
Nguồn: Whittington, R. J., Hick, P., Fuhrmann, M., Liu, O., & Paul-Pont, I. (2021). Removal of oyster pathogens from seawater. Environment International, 150.