Kết luận cuối cùng về nguyên nhân ngao chết ở Thanh Hóa

Trung tâm Quan trắc môi trường và Bệnh thủy sản miền Bắc thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I vừa có kết luận cuối cùng về nguyên nhân ngao chết tại Thanh Hóa.

Kết luận cuối cùng về nguyên nhân ngao chết ở Thanh Hóa
Cạnh tranh thức ăn khiến ngao gầy, sức đề kháng giảm, gặp thời tiết bất lợi gây chết

Kiểm tra mật độ ngao nuôi ở những bãi ngao đã được các bãi nuôi thu dọn xác ngao 2 lần cho thấy, ngao giống cỡ 1000 – 2000 con/kg là 2.500 – 3.575 con/m2, ngao thương phẩm cỡ 200 con/kg là 1.250 con/m2. Riêng bãi ngao giống chưa dọn xác ngao có mật độ 5.250con/m2. Trong khi đó, mật độ thả giống phù hợp là 500 con/m2 với cỡ 400-500 con/kg hoặc 400-450con/m2 với cỡ 300-400con/kg và 250-300con/m2 với cỡ 300con/kg.


Mật độ nuôi quá dày

Chênh lệch nhiệt độ ngày đêm lớn (từ ngày 15/3-2/4/2019 từ 6 – 11oC)  kết hợp với thời gian phơi bãi vào ban đêm và kéo dài 8h/ngày đã làm ngao nuôi bị sốc nhiệt, yếu và giảm sức đề kháng

Kết quả đo và phân tích các chỉ tiêu nhiệt độ, PH, độ mặn, độ kiềm, N-NH4+, NH3, N-NO2-, P-PO43-, H2S và COD trong 9 mẫu nước thu tại vùng nuôi ngao xã Hải Lộc huyện Hậu Lộc cho thấy, hàm lượng H2S trong mẫu nước thu tại bãi nuôi hộ ông Nguyễn Văn An và Nguyễn Văn Tự cao hơn ngưỡng từ 1,3 – 3 lần,  giá trị H2S đạt cao do mẫu thu tại bãi ngao chưa thu dọn xác ngao do sự phân hủy của thịt ngao chết. Trong khi đó, giá trị H2S ở bãi ngao của các hộ còn lại có giá trị nằm trong giới hạn cho phép do xác ngao chết đã được thu dọn 2 lần. Tất cả các chỉ tiêu còn lại đều nằm trong giới hạn cho phép đối với môi trường nuôi thủy sản nước mặn lợ và Quy chuẩn Việt Nam QCVN 10-MT: 2015/BTNMT.

Kết quả phân tích tảo độc hại trong các mẫu thu đã không ghi nhận sự có mặt của các loài  tảo độc hại.

Mật độ phù du trong 9 mẫu thu được rất thấp, dao động từ 73 – 325 tb/l, thể hiện môi trường nghèo dinh dưỡng, không đủ thức ăn cho ngao phát triển, ngao sinh trưởng chậm, gầy yếu, giảm sức đề kháng. Mặt khác, giải phẫu mẫu ngao thu được cho thấy 100% mẫu ngao gầy, giảm sức đề kháng khi gặp môi trường bất lợi. 9 mẫu trầm tích thu tại vùng nuôi ngao xã Hải Lộc gồm các chỉ tiêu PH, tổng cacbon hữu hiệu, tổng Nitơ hữu hiệu và tổng phốt pho hữu hiệu đều có giá trị thấp, không ảnh hưởng đến môi trường nuôi ngao.

Các thông số kim loại nặng trong nước như Zn, Pb, Cr, Cd, Hg và Ni trong 5 mẫu nước thu từ vùng nuôi ngao xã Hải Lộc đều có giá trị nằm trong giới hạn cho phép. Kết quả phân tích Herpesvirus và Perkinsus bằng phương pháp PCR từ 21 mẫu ngao thu tại các vùng nuôi ngao xã Hải Lộc đều cho kết quả âm tính. Mật độ vi khuẩn Vibrio tổng số trong nước thu tại 9 điểm trong bãi nuôi ngao xã Hải Lộc chỉ có 1 mẫu 1,2x103 CFU/ml, cao hơn ngưỡng cảnh báo (103 CFU/ml). Các mẫu còn lại đều có mật độ Vibrio tổng số thấp hơn giới hạn cảnh báo. Do vậy, vi khuẩn Vibrio tổng số trong nước không phải là nguyên nhân gây ngao chết.

Mật độ Vibrio tổng số trong 9 mẫu bùn thu được đều có giá trị cao hơn giới hạn cảnh báo (103 CFU/ml) từ 1,1 – 3,4 lần do hiện tượng phân hủy xác ngao chết trong bùn là nguồn sinh dưỡng cho vi khuẩn phát triển, là tác nhân cơ hội làm ngao yếu, giảm sức đề kháng trong điều kiện môi trường không thuận lợi.

Kết quả phân tích tác nhân gây bệnh do vi khuẩn trên 21 mẫu ngao đã xác định được 3 loài vi khuẩn thuộc giống Vibrio (2 loài) và giống Aeromonas (1 loài) gồm: Vibrio. parahaemolyticus (4/21 mẫu); V. vulnificus (1/21 mẫu) và A.hydrophila (1/21 mẫu) với tỷ lệ nhiễm thấp, lần lượt là 19,0%; 4,8% và 4,8%.

Như vậy, vi khuẩn không phải là tác nhân gây bệnh ở ngao mà chỉ là tác nhân cơ hội khi ngao yếu, giảm sức đề kháng.

Từ những kết quả trên, Trung tâm Quan trắc môi trường và Bệnh thủy sản miền Bắc kết luận, các yếu tố nhiệt độ, PH, độ mặn, độ kiềm, N-NH4+, NH3, N-NO2-, P-PO43-, H2S, COD, tảo độc hại, Vibrio tổng số, Zn, Pb, Cr, Cd, Hg và Ni trong nước; các thông số pH, tổng cacbon hữu hiệu, tổng Nitơ hữu hiệu và tổng phốt pho hữu hiệu trong trầm tích; vi rút Herpes, ký sinh trùng Perkinsus và vi khuẩn không phải là nguyên nhân gây chết ngao.

Mật độ nuôi dầy dẫn đến cạnh tranh thức ăn và nơi trú ẩn, điều kiện môi trường biến động đột ngột (xuất hiện váng đỏ), nhiệt độ chênh lệch ngày đêm cao (6-11oC) là nguyên nhân chính và thời gian phơi bãi về đêm lúc nhiệt độ giảm thấp, môi trường nghèo dinh dưỡng, ngao gầy, giảm sức đề kháng là nguyên nhân gây ngao chết ở xã Hải Lộc.

NNVN
Đăng ngày 16/04/2019
Võ Văn Dũng
Nuôi trồng

Cách kiểm soát lượng thức ăn để giảm chi phí

Việc nuôi tôm một cách hiệu quả và tiết kiệm không chỉ là việc cung cấp đủ thức ăn cho chúng, mà còn là sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp quản lý môi trường, lịch trình cung cấp thức ăn, và sử dụng thông minh nguồn thức ăn tự nhiên và nhân tạo, sử dụng công nghệ mới.

Tôm thẻ
• 08:00 28/01/2025

Lợi ích kinh tế và mô hình nuôi cá lóc hiệu quả cho nông dân

Trong bối cảnh phát triển bền vững ngành nông nghiệp, việc kết hợp giữa nuôi trồng thủy sản và canh tác truyền thống đang trở thành xu hướng.

Nuôi cá lóc
• 08:00 27/01/2025

Khoáng tạt và khoáng trộn: Ưu và nhược điểm từng loại

Trong nuôi tôm, cung cấp đầy đủ khoáng chất là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự phát triển và sinh trưởng đồng đều của tôm. Hiện nay, người nuôi thường sử dụng hai hình thức bổ sung khoáng chất: khoáng tạt và khoáng trộn. Mỗi hình thức đều có những ưu và nhược điểm riêng, phù hợp với tùy tình huống và mục đích sử dụng.

Khoáng cho tôm
• 09:00 26/01/2025

Tái chế nước thải trong ao nuôi để bảo vệ môi trường

Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản ngày càng phát triển, vấn đề xử lý nước thải trong ao nuôi đang trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu.

Ao nuôi tôm
• 09:41 24/01/2025

Nhu cầu tiêu thụ thủy sản hữu cơ tại các nước phát triển

Trong xu hướng tiêu dùng bên vực, ngày càng nhiều quốc gia phát triển chú trọng đến sản phẩm hữu cơ, bao gồm cả thủy sản. Sản phẩm hữu cơ được đánh giá cao nhờ quy trình sản xuất an toàn, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và giảm thiểu tác động đến môi trường.

Thủy sản
• 19:47 28/01/2025

Lợi ích kinh tế và mô hình nuôi cá lóc hiệu quả cho nông dân

Trong bối cảnh phát triển bền vững ngành nông nghiệp, việc kết hợp giữa nuôi trồng thủy sản và canh tác truyền thống đang trở thành xu hướng.

Nuôi cá lóc
• 19:47 28/01/2025

Khoáng tạt và khoáng trộn: Ưu và nhược điểm từng loại

Trong nuôi tôm, cung cấp đầy đủ khoáng chất là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự phát triển và sinh trưởng đồng đều của tôm. Hiện nay, người nuôi thường sử dụng hai hình thức bổ sung khoáng chất: khoáng tạt và khoáng trộn. Mỗi hình thức đều có những ưu và nhược điểm riêng, phù hợp với tùy tình huống và mục đích sử dụng.

Khoáng cho tôm
• 19:47 28/01/2025

Tép hòa vị Tết 2025: Cách làm chả cá thác lác dai ngon đúng chuẩn cho ngày Tết

Chả cá thác lác là món ăn quen thuộc trong ẩm thực Việt Nam, nổi bật với hương vị thơm ngon, dai giòn đặc trưng và cực kỳ bổ dưỡng. Làm chả cá thác lác tưởng chừng đơn giản nhưng để đạt được độ dai ngon đúng chuẩn, người làm cần nắm rõ từng bước từ chọn nguyên liệu đến chế biến.

Chả cá thác lác
• 19:47 28/01/2025

Áp dụng nhiều công nghệ mới để chống khai thác IUU

Sáng ngày 14/1/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà chủ trì hội nghị lần thứ 12 về chống khai thác IUU, chuẩn bị làm việc với Đoàn Thanh tra của Ủy ban Châu Âu lần thứ 5. Phó Thủ tướng chỉ đạo, áp dụng nhiều công nghệ mới để tăng cường quản lý đội tàu cá. Một số chuyên gia cho biết, Ấn Độ đã sử dụng máy bay không người lái để giám sát tàu cá, ngăn chặn khai thác IUU.

Tàu thuyền
• 19:47 28/01/2025
Some text some message..