Kích thích sinh sản nhân tạo cá bớp

Nghiên cứu kích thích cá bớp sinh sản nhằm tạo ra nguồn giống ổn định để cung cấp cho người nuôi ở các tỉnh ven biển ĐBSCL và cả nước nói chung.

Cá bớp
Cá bớp.

Cá bớp (hay còn gọi là cá giò, cá bóp) là đối tượng cá biển có giá trị kinh tế cao, nhanh lớn, dễ nuôi, ít bệnh và phù hợp với hình thức nuôi công nghiệp tạo sản lượng hàng hoá lớn. Thịt cá bớp trắng, ngon và bổ dưỡng. Hiện nay, một số quốc gia như Philippine, Mỹ và Australia, Ấn Độ,... cũng đang có chiến lược phát triển nuôi cá bớp. Trong tương lai cá bớp sẽ trở thành đối tượng nuôi chính, đóng góp sản lượng chủ yếu vào nghề nuôi cá biển.

Cá bớp phân bố rộng ở nhiều vùng biển trên thế giới từ vùng biển nhiệt đới, cận nhiệt đới và cả vùng nước ấm của biển ôn đới. Ở Việt Nam cá phân bố cả vùng nước ven bờ và xa bờ từ Bắc đến Nam.

Cá bớp thuộc loại cá dữ, ăn thịt động vật. Tốc độ sinh trưởng của cá nhanh, có thể đạt cỡ 4-6kg sau một năm nuôi. Mùa vụ sinh sản của ở miền Bắc từ tháng 4 đến tháng 7 hàng năm. Do Cá Bớp có tốc độ sinh trưởng nhanh, giá thị trường tương đối cao nên được nuôi khá phổ biến ở nhiều tỉnh ven như Quảng Ninh , Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Huế, Phú Yên, Khánh Hòa, Vũng Tàu, Kiên Giang.. Hình thức nuôi chủ yếu là nuôi lồng trên biển.

Tuy nhiên, nghề nuôi cá lồng hiện nay vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn, phần lớn còn dựa vào nguồn cá giống được đánh bắt ngoài tự nhiên, không chủ động, thiếu giống, giá không ổn định và kích cỡ không đồng đều, gây ảnh hưởng đến tỷ lệ sống, năng suất và hiệu quả nghề nuôi. Chính vì thế, việc nghiên cứu kích thích cá bớp sinh sản là rất cần thiết, góp phần xây dựng qui trình sản xuất giống, nhằm tạo ra nguồn giống để cung cấp cho người nuôi ở các tỉnh ven biển ĐBSCL và cả nước nói chung.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu kích thích sinh sản cá bóp bằng hormon HCG và LHRHa với các liều lượng khác nhau đã được thực hiện. 

Nguồn cá bố mẹ được dùng trong nghiên cứu là từ nguồn cá được nuôi vỗ và khối lượng cá dao động từ 10 – 12 kg/con.

Nuôi vỗ thành thục

Cá bớp bố mẹ dùng để chọn kích thích sinh sản có nguồn từ cá được nuôi thương phẩm (nguồn cá giống được bắt từ tự nhiên) với kích cỡ ban đầu dao động từ 8 – 12 kg (cá khoảng 18 tháng tuổi), sau đó tiến nuôi vỗ trong lồng có thể tích 64 m3, mật độ nuôi 40 con/lồng, tỷ lệ đực cái là 1:1 và được cho ăn bằng cá tạp với lượng 3 – 5% khối lượng thân/ngày.

Sau 2 – 3 tháng nuôi vỗ, tiến hành chọn cá đã thành thục sinh dục (10 – 12 kg/con) để tiêm chất kích thích sinh sản: cá cái thành thục sinh dục có biểu hiện bụng căng tròn đều, lỗ sinh dục to và ửng hồng hay có thể dùng que thăm trứng có đường kính 1,2 mm. Khi trứng cá có màu vàng sậm, đường kính trứng đạt từ 0,7 mm trở lên và khi quan sát trứng bằng dung dịch sera nếu thấy nhân lệch hơn 50% trên tổng số trứng quan sát thì ta chọn cá để cho sinh sản. Đối với cá đực, cũng tiến hành lấy sẹ tương tự như lấy trứng, khi sẹ có màu trắng đục và có khả năng hòa tan nhanh trong môi trường nước. 

Các loại hormone và liều lượng được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm

(i) Không tiêm (cá đẻ tự nhiên)

(ii) HCG được tiêm với 3 liều 250; 500; 750 UI/kg cá cái

(iii) LHRHa cũng được tiêm với 3 liều lượng 20; 30 và 40 g/kg cá cái.

Cá cái và cá đực được tiêm cùng một thời gian và tiêm 1 lần. 

Với mỗi liều lượng tiêm từ 3 – 5 cặp cá bố mẹ. Cá đực được tiêm với liều bằng ½ liều lượng cá cái.

Kết quả cho thấy, thời gian hiệu ứng dao động từ 36 – 62 giờ và tỷ lệ cá đẻ dao động từ 25-80%, với chất kích thích LHRH-a 20 và 30µg/kg thì tỷ lệ đẻ đạt cao nhất (80%). 

Sức sinh sản thực tế trung bình dao động từ 76.601 – 91.058 trứng/kg/lần.

Tỷ lệ thụ tinh của trứng ở nghiệm thức tiêm 20µg LHRH-a, 30µg LHRH-a cho kết quả tốt hơn (73,17 – 84,44%) so với các nghiệm thức còn lại, tỷ lệ nở cũng đạt cao nhất (74,24 – 83,58%) và tỷ lệ cá bột dị hình thấp (6,8 – 9,54%). 

Tóm lại, trong sinh sản nhân tạo cá bớp thì tiêm LHRH-a với liều 20-30 µg/kg được khuyến cáo áp dụng.

Thành công bước đầu trong sản xuất giống nhân tạo cá bớp có ý nghĩa rất quan trọng cho việc hoàn chỉnh qui trình sản xuất giống nhân tạo cung cấp đủ nguồn giống cho thị trường, đảm bảo phát triển bền vững nghề nuôi cá bớp lồng trên biển không chỉ của tỉnh Kiên Giang mà còn cho các tỉnh ven biển.

Theo Nguyễn Anh Tuấn , Lê Quốc Việt và Trần Ngọc Hải

Đăng ngày 21/11/2019
NH Tổng Hợp
Kỹ thuật

Nuôi tôm thành công nhờ vào vi sinh vật có lợi

Ngày càng nhiều người nuôi nhận thấy lợi ích của việc sử dụng vi sinh vật có lợi để cải thiện môi trường ao và tăng cường sức khỏe cho tôm. Đây không chỉ là xu hướng mới mà còn là một phương pháp nuôi tôm bền vững, giúp giảm thiểu rủi ro bệnh tật và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Tôm thẻ chân trắng
• 09:38 11/11/2024

Điều chỉnh lượng và kích thước thức ăn cho tôm qua từng giai đoạn

Quản lý thức ăn là một yếu tố quan trọng giúp người nuôi tối ưu hóa quá trình nuôi tôm và giảm thiểu lãng phí, từ đó mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ rằng lượng và kích thước thức ăn cần được điều chỉnh qua từng giai đoạn phát triển của tôm.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:47 05/11/2024

Có phải khi lột vỏ, tôm sẽ trốn dưới đáy ao?

Hành vi của tôm trong giai đoạn lột vỏ có những đặc điểm rất khác biệt so với lúc bình thường. Trong đó, một trong những hành vi dễ nhận thấy nhất là tôm có xu hướng trốn dưới đáy ao hoặc các khu vực an toàn hơn.

Tôm thẻ
• 14:26 01/11/2024

Diệt nấm bám trên thiết bị ao nuôi

Trong ao nuôi tôm, các thiết bị như máy sục khí, hệ thống cấp thoát nước, và các công cụ khác rất dễ bị nấm bám trong môi trường nước giàu chất hữu cơ. Nấm không chỉ làm hỏng thiết bị mà còn ảnh hưởng đến chất lượng nước, gây nguy hiểm cho tôm.

Nấm ao nuôi
• 10:27 30/10/2024

Tiêu chuẩn chất lượng thức ăn trong nuôi tôm: Yếu tố quan trọng để đảm bảo hiệu quả và sức khỏe

Thức ăn không chỉ là nguồn cung cấp năng lượng mà còn là nền tảng để tôm tăng trưởng, phát triển hệ miễn dịch, và đạt đến kích cỡ thương phẩm. Để đạt được mục tiêu này, người nuôi cần nắm rõ các tiêu chuẩn chất lượng thức ăn và cách kiểm soát chúng trong suốt quá trình nuôi.

Tôm thẻ
• 14:25 13/11/2024

Giải pháp nâng cao hiệu quả mô hình nuôi cá điêu hồng gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm

Nuôi thương phẩm cá điêu hồng trong lồng gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm là một mô hình khá hiệu quả, giúp gia tăng giá trị sản phẩm và đảm bảo sự bền vững cho người nuôi. Mô hình này kết hợp giữa việc nuôi cá và các hoạt động tiêu thụ, cung cấp cho người nuôi một thị trường ổn định và giảm thiểu rủi ro về giá cả hay tiêu thụ sản phẩm. Dưới đây là các giải pháp cần lưu ý khi thực hiện mô hình này

Cá điêu hồng
• 14:25 13/11/2024

Sự hỗ trợ nhau ở các bộ phận trên cơ thể tôm

Mỗi bộ phận của tôm, từ vỏ ngoài cứng cáp đến các cơ quan tiêu hóa, hô hấp và bài tiết, đều giữ vai trò riêng biệt nhưng lại không thể hoạt động một cách độc lập. Sự liên kết này giúp tôm bảo vệ bản thân trước các mối nguy, tận dụng dinh dưỡng và duy trì sức khỏe.

Tôm thẻ chân trắng
• 14:25 13/11/2024

Chuyển giao kỹ thuật nuôi biển công nghiệp

Từ ngày 12 – 15/11/2024, tại thành phố Nha Trang, Tổng cục Thuỷ sản phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Văn phòng điều phối nông thôn mới Trung ương, Đại học Cần Thơ, Đại học Nha Trang và Quỹ Thiện tâm (Tập đoàn Vingroup).

Ông Trần Đình Luân
• 14:25 13/11/2024

Chức năng của vôi canxi trong nuôi tôm

Vôi canxi đóng vai trò quan trọng trong nuôi tôm nhờ vào các chức năng cải thiện chất lượng môi trường nước và sức khỏe tôm.

Vôi
• 14:25 13/11/2024
Some text some message..